LTS: Nhà văn – người lính Phan Nhật Nam và NXB Sống vừa phát hành hai tuyển tập “Phận Người, Vận Nước” và “Chuyện Dọc Đường” vào tháng 10, năm 2013, tại Quận Cam. Sau đây là phát biểu của cô Trangđài Glassy-Trầnguyễn tác giả trong chương trình ra mắt sách ngày 12 tháng 10 tại Nhà hàng Paracel, thành phố Westminster, CA. Tác giả là diễn giả trẻ duy nhất được mời, bên cạnh Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa và Nhà văn Bùi Bảo Trúc.
Xin kính chào Quý Vị,
Thuốc đắng giã tật,
Sự thật mất lòng.
Tuy tôi dấn thân trong việc duy trì và bảo tồn ngôn ngữ và văn hoá Việt trong hai thập niên qua tại Quận Cam, nhưng hôm nay, tôi xin phá lệ và thay đổi tục ngữ Việt Nam, để nói về những “sự thật ẤM lòng.”
Tôi xin Quý Vị kiên nhẫn cho phép tôi trình bày một vài ‘sự thật’ về Nhà văn Phan Nhật Nam. Tôi chưa từng gặp gỡ hay trò chuyện với ông. Tôi chỉ được nghe ông nói chuyện vài tháng trước tại tiệc sinh nhật thứ hai của Tuần báo Sống, và đọc ông cũng ở báo Sống. Tôi cũng không có quan hệ máu mủ với ông. Nên có lẽ những gì tôi sắp nói sẽ mang tính khách quan, mà tôi hy vọng sẽ làm ấm lòng ông và tất cả quý vị có mặt hôm nay.
Trước hết, Phan Nhật Nam là một người gàn bướng, có thể nói là gàn dở. Ông cứ một mực khăng khăng: tôi là người lính, chứ không phải nhà văn. Ông sống tại quê hương trong thời loạn, thì dĩ nhiên, như rất nhiều thanh niên khác, ông nhập ngũ để phục vụ tổ quốc. Vậy thì, việc ông khăng khăng xác nhận tước hiệu người lính của mình là một sự lập lại không cần thiết. Hơn nữa, trên đời không có cái luật cấm nhà binh cầm bút, cũng như không có cái luật nào cấm nhà văn nhập ngũ. Vậy Phan Nhật Nam khăng khăng cái nhân diện nhà binh của mình để làm gì?
Có lẽ đây là sự khéo léo của Phan Nhật Nam. Ông nói như vậy, để chúng ta không khó tính quá khi đọc sách của ông chăng? Vì dù sao, ông là nhà binh, không phải nhà văn, viết lách không phải là nghề hay nghiệp. Chắc chắn không phải vậy. Phan Nhật Nam đã cầm bút cả đời, và là một nhà văn rất ăn khách. Theo tôi, ông luôn khẳng định nhân diện người lính của mình, vì đối với ông, đó là danh xưng quan trọng nhất, làm cho ông hãnh diện nhất, và mang đến cho ông nhiều thao thức nhất. Như ông nói, chính những thao thức này đã bắt ông cầm bút. Ông như một người lính trung thành. Ngay cả khi ông đứng vào trận địa chữ nghĩa, ông vẫn coi mình trước hết là một người lính của chiến trường miền Nam. Âu đó cũng là sự chung thuỷ của ông với binh nghiệp.
Thứ hai, Phan Nhật Nam là một người cố chấp. Ông cứ viết lại những gì mà nhiều người muốn quên vì nó quá tang thương. Ông nhất quyết viết lại những biến cố lịch sử mà chính quyền chuyên chế hiện nay không muốn chấp nhận là sử liệu.
Sự cố chấp này là đốm lửa cần thiết, cùng với những đốm lửa khác ở khắp nơi trên hải ngoại, thắp lên chứng từ giữa đêm đen của một lịch sử bị chôn sống. Ngòi bút của Phan Nhật Nam đã giúp lịch sử đó đội mồ đứng dậy, nói với chúng ta – những người đã đọc sách của ông, và những người đã cùng sống và chiến đấu với ông – rằng sự thật phải được ghi lại. Tôi tin rằng, ngòi bút của ông sẽ tiếp tục nói với những thế hệ tương lai về một trang sử còn dở dang của dân tộc.
Thứ ba, Phan Nhật Nam là người lẩm cẩm. Ông kể lại những điều xem ra không còn quan trọng của bốn mươi năm trước, chuyện mà thời nay các thế hệ một rưỡi hay các thế hệ ngoại biên không có khái niệm rõ rệt. Một thứ chuyện đời xưa. Nhưng ở trên đời, thời đại nào, dân tộc nào cũng cần có những chuyện đời xưa như thế. Đất nước nào bị mất trí nhớ, không giữ lại chuyện đời xưa, thì sẽ tự diệt vong.
Ông như một người thứ nam, đứng ra thay thế cho vị trưởng nam là các tướng lãnh đã khuất, để làm giỗ. Mỗi trang sách là một cái giỗ. Mỗi tựa đề là một lư hương. Mỗi câu chuyện là một linh vị, với cái tên của một miền đất Việt, với quân danh của một đồng đội đã ra đi, với tên gọi của một trận chiến. Những linh vị chít khăn tang. Phan Nhật Nam đi tìm những cái xác tinh thần của đồng đội – tôi xin lập lại: những cái xác tinh thần của đồng đội – để cho họ có một sự chôn cất tử tế. Đó là cái nghĩa của Phan Nhật Nam – của tình binh đệ. Những tác phẩm của Phan Nhật Nam là một hiệp kỵ, cùng giỗ những người lính đã nằm xuống, những người dân bỏ mình vì can qua. Chữ nghĩa của Phan Nhật Nam là bài truy điệu một quê hương đã mất mà không có mộ phần.
Tôi có những suy nghĩ như thế về Phan Nhật Nam chính vì trong hai mươi năm nay, tôi vẫn luôn đi tìm những người gàn dở, cố chấp, lẩm cẩm như ông. Tôi đọc và hiểu về thế hệ Phan Nhật Nam với nhiều khoảng cách: khoảng cách thời gian, khoảng cách lịch sử, khoảng cách thế hệ, khoảng cách kinh nghiệm, khoảng cách giữa chiến tranh và hoà bình hữu danh vô thực, khoảng cách giữa bom đạn và đời thường, giữa miền Nam khói lửa và Quận Cam phồn thịnh. Nhưng chính nhờ những sự cố chấp, gàn dở, lẩm cẩm của ông, mà những khoảng cách này được giảm đi hay biến mất trên trang giấy, khi tôi đọc với thao thức đi tìm chân lý và công bằng cho lịch sử dân tộc.
Hơn nữa, suốt hai thập niên qua, tôi cũng là một kẻ gàn dở, lẩm cẩm như Phan Nhật Nam. Người Mỹ có câu, “It takes one to know one.” Người Việt chúng ta nói, “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.” Từ thập niên 90, khi mới định cư tại Quận Cam, tôi đã dùng tiền học mượn của chính phủ Hoa Kỳ để khởi xướng Dự Án Việt Mỹ Vietnamese American Project tại Đại học Cal State Fullerton. Hai công việc chính tôi đề ra cho Dự Án là thu thập kinh nghiệm lịch sử của người Mỹ gốc Việt bằng phương pháp lịch sử truyền khẩu, và thực hiện những sinh hoạt đa dạng để nối kết cộng đồng và đại học.
Đặc biệt, tôi đã dùng những ký ức cá nhân của hàng trăm người tôi đã phỏng vấn, để làm những sợi tơ, dệt nên bức tranh lịch sử của dân tộc trong thế kỷ 20. Bức tranh đó rất nhiều màu, phản ánh những sắc thái khác nhau của kinh nghiệm chiến tranh tại Việt Nam, lịch sử di dân, và đời sống hội nhập tại Hoa Kỳ. Trong bài viết chuyên đề mệnh danh “Quận Cam, Sử Vàng,” vốn đoạt giải quán quân về nghiên cứu bậc cao học của hệ thống Cal State University năm 2004, tôi đã dành một phần lớn của bài để đưa ra bức tranh này qua phần “Chứng từ Cá nhân trong dòng Lịch sử dân tộc,” “Personal Narratives Vis-à-vis Collective History.” Cho nên, “Quận Cam, Sử Vàng” của tôi và “Phận người, Vận nước” của Phan Nhật Nam có cùng một cách nhìn về vai trò của mỗi người Việt trong dòng lịch sử chung của Việt tộc. Mỗi chúng ta là một gam màu trong bức tranh bi hùng đó.
Kính thưa Quý Vị, tôi không phải là người duy nhất thích nói ‘sự thật.’ Thi hào Shakespeare đã viết bài Sonnet 130 về người yêu của ông. Tôi tạm dịch hai câu đầu, nghe rất dễ ‘mất bồ:’
My mistress' eyes are nothing like the sun;
Coral is far more red than her lips' red;
Đôi mắt người yêu tôi làm gì sánh được với vầng dương;
San hô thắm gấp bội lần môi nàng đỏ;
Và Shakespeare ‘tả thật’ từ đầu đến chân, từ hơi thở đến giọng nói – tất cả, cũng chỉ để nói một điều:
And yet, by heaven, I think my love as rare
As any she belied with false compare.
Nhưng, có trời biết, tôi nghĩ người yêu tôi thật hiếm hoi
Nên so sánh nàng với bất cứ ai là một điều sai trái
Đó là cú dứt của Shakespeare. Một cú dứt bất ngờ và độc đáo. Ông yêu không vì cái lộng lẫy kiêu sa như dáng tiên của cô gái, nhưng ông yêu con người của cô, yêu sự hiếm hoi, riêng biệt, duy nhất của cô. Chúng ta đọc Phan Nhật Nam không chỉ vì ông là một nhà văn có tài, mà còn vì ông là một người lính cầm bút, cầm bút bằng tấm lòng. Nên không thể so sánh Phan Nhật Nam với bất cứ nhà văn nào. Vì ông là một người cầm bút hiếm có. Và bất cứ sự so sánh nào cũng sai lệch, và không cần thiết. Chúng ta hãy đọc Phan Nhật Nam như Shakespeare yêu người yêu của ông: bằng cách ôm choàng lấy những gì tác giả trao gởi qua giấy mực, không cần mơ mộng viễn vông hay thêu dệt xa xôi, mà đi vào những con đường Phan Nhật Nam muốn chúng ta cùng đi với ông – những con đường nhuốm thời gian của quê hương, nơi vẫn cần rất nhiều người trở về để một lần làm chứng nhân lịch sử.
Tôi xin kính chúc Nhà văn Phan Nhật Nam nhiều sức khoẻ và mọi điều tốt lành trong chuyến đi ra mắt sách xuyên Hoa Kỳ sắp tới.Xin trân trọng cám ơn và kính chào Quý Vị.
Giá sách: $25/cuốn. Giá đặc biệt trong ngày ra mắt: $40/bộ (2 cuốn)
Ở xa, đặt mua sách xin gọi (714) 531-5362: $50/bộ (luôn cước phí)
Email: tuanbaosong@gmail.com