Nhà thơ Phạm Ngọc Lư
Sinh năm 1946 tại Phú Vang, Thừa Thiên, giáo chức tốt nghiệp Viện Hán Học và Đại Học Văn khoa Huế, động viên khóa 5-1968 trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Từ 1963, ký tên thật và bút hiệu Phạm Triều Nghi, ông có thơ văn đăng trên các tạp-chí văn-học Văn, Nghệ Thuật, Bách Khoa, Ý Thức, Trình Bầy, Khởi Hành, Tuổi Ngọc, ... Tác-phẩm xuất-bản sau 1975: Đan Tâm (Thư Ấn Quán, 2004 gồm một số thơ trước 1975) và Mây Nổi (tác giả xuất bản, 2007). Phạm Ngọc Lư đến và ở lại với văn-học miền Nam với những bài Hành đặc sắc. Thể thơ Hành thuộc thơ xuất xứ từ Trung Hoa, thường viết theo các thể song thất lục bát, thất ngôn hoặc ngũ ngôn, và thường dài hơi. Với nhà thơ Việt-Nam, hành thường dùng để nói lên nỗi niềm, tâm sự, những cái bất hạnh, đớn đau, có khi hiền hòa nhẫn nhục, có khi là tiếng "thét" lớn, nhưng thường thường bi hận, lắng đọng. Phạm Ngọc Lư viết Biên Cương Hành vào năm 1972, lúc mà cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn lên cao điểm với những cuộc tấn công, khủng bố lan khắp vùng đất nước – Mùa Hè Đỏ Lửa tiếp nối Tết Mậu Thân. Có thể nói bài Biên Cương Hành thuộc vào những bài Hành hay nhất của văn-học miền Nam, hay về đề tài chiến-tranh và đặc sắc thể-loại: những con chữ trung thực của con người sống thực, với hành trang và xuất xứ cổ điển, lời thơ trang trọng, nhiều ẩn dụ, có chiều sâu tri thức và tâm thức, lương tri, bi thương, như những tiếng chuông chiêu hồn từ chiến trường. Những tàn nhẫn của chiến-tranh, của con người, của nhiều thế lực có thể vô hình, với phẫn uất và nỗi đau tận cùng của người lính, của con người Việt-Nam. Đây đó như một bản cáo trạng tội ác đối với những kẻ đã gây ra cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Với người lính Phạm Ngọc Lư, những vần trung thực, chân thành mới tỏ bày được hồn thơ lâm chiến:
Biên cương hành
"Biên cương biên cương chào biên cương
Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương
Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
Núi chập chùng như dãy mồ chôn
Gớm, gió Lào tanh mùi đất chết
Thổi lấp rừng già bạt núi non
Mùa khô tới theo chân thù địch
Ta về theo cho rậm chiến trường
Chiến trường ném binh như vãi đậu
Đoàn quân ma bay khắp bốn phương
Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi
Núi mang cao điểm ngút oan hờn
Đá mang dáng dấp hình chinh phụ
Trơ vơ chóp núi đứng bồng con
Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy
Đá Vọng Phu mọc khắp biên cương
Biên cương biên cương đi biền biệt
Chưa hết thanh xuân đã cùng đường
Trông núi có khi lầm bóng vợ
Ôm đá mà mơ chuyện yêu đương
Thôi em, sá chi ta mà đợi
Sá chi hạt cát giữa sa trường
Sa trường anh hùng còn vùi dập
Há rằng ta biết hẹn gì hơn?
Đây biên cương, ghê thay biên cương!
Núi tiếp rừng, rừng tiếp khe truông
Hãi hùng chưa trời hoang mây rậm
Mùa mưa về báo hiệu tai ương
Quân len lỏi dưới tàn lá dữ
Lá xôn xao xanh mặt hoảng hồn
Sát khí đằng đằng rừng dựng tóc
Ma thiêng còn ngán bọn cô hồn
Cô hồn một lũ nơi quan tái
Có khi đã hóa thành thú muông
Cô hồn một lũ nơi đất trích
Vỗ đá mà ca ngông hát cuồng
Chém cây cho đỡ thèm giết chóc
Đỡ thèm môi mắt gái buôn hương
Đây biên cương, ghê thay biên cương!
Tử khí bốc lên dày như sương
Đá chảy mồ hôi rừng ứa máu
Rừng núi ơi ta đến chia buồn
Buồn quá giả làm con vượn hú
Nào ngờ ta con thú bị thương
Chiều hôm bắc tay làm loa gọi
Gọi ai nơi viễn xứ tha phương?
Gọi ai giữa sơn cùng thủy tận?
Ai người thiên cổ tiếc máu xương?
Em đâu, quê nhà chong mắt đợi
Hồn theo mây trắng ra biên cương
Thôi em, yêu chi ta thêm tội
Vô duyên xui rơi lược vỡ gương
Ngày về không hẹn ngày hôn lễ
Hoặc ngày ta nhắm mắt tay buông
Thôi em, chớ liều thân cô phụ
Chiến trường nay lắm nỗi đoạn trường
Nơi nơi lạnh trăm dòng sông Dịch
Kinh Kha đời nay cả vạn muôn
Há một mình ta xuôi biên tái
“Nhất khứ bất phục phản” là thường!
Thôi em, còn chi ta mà đợi
Ngày về: thân cạn máu khô xương
Ngày về: hôn lễ hay tang lễ
Hề chi! buổi chinh chiến tang thương
Hề chi! kiếp cây rừng đá núi
Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương".
- tháng 5-1972
(Văn tháng 10-1972; Trích từ Đan Tâm, tr. 15-18)
Bài sau, Thâu Đêm Trằn Trọc Nghe Mưa, cũng mang âm hưởng những bài Hành thời tráng sĩ đầy tâm sự biết ngỏ cùng ai ở chốn nhân gian thường tình:
Thâu Đêm Trằn Trọc Nghe Mưa
"Chưa mùa mưa trời bỗng mưa mau
Mái nghiêng gác lệch mưa rêm đầu
Nghe lòng chăn chiếu ê chề quá
Hơi hướm giang hồ chẳng ấm nhau
Cứ gom tâm sự nằm nhai lại
Tâm sự một đời [ôi] bể dâu
Năm năm mười năm không là mấy
Góp lại không đầy một đêm thâu
Đêm thâu nghe mưa rơi trằn trọc
Đời mòn chí mỏi biết về đâu?
Bao khách xa nhà trong thiên hạ
Đêm mưa thanh khí chẳng tương cầu
Cứ nghe mưa héo mòn trời đất
Tê buốt lòng ngàn mũi kim khâu
Chưa mùa mưa sao mưa rười rượi
Không chừng trời ốm khiến mưa đau
Chiếu chăn meo mốc chua mùi mộng
Mộng sớm mộng khuya chóng bạc màu
Nhốn nháo sinh linh thời nhiễu loạn
Lều bều thân thế lộn vàng thau
Năm nổi tháng chìm ngày mắc cạn
Đêm mưa lòng nghẽn nước đục ngầu
Nằm suông thức trắng nghe mưa giọt
Sáng dậy ngu ngơ: tóc bạc đầu!".
- 1973
Phạm Ngọc Lư còn có bài hành khác: Cố Lý Hành. Ở đây, dấu vết chiến-tranh không trực tiếp hiện diện thì cũng là nguyên nhân, khi nhà thơ trở về xóm làng cũ tưởng vẫn là chốn thanh bình, trở về quá-khứ mới 10 năm – vì hiện-tại đã khác xưa, đưa đến những nghi vấn và cảm nhận buồn đầy thi vị, thi vị một cách bi hoài:
Cố Lý Hành
"Chiều chết đuối trên sông ngờm ngợp
Nước đua chen đớp bọt nắng tàn
Đò qua sông đìu hiu bến đợi
Buồn rút lên bờ cây khai quang
Mây đổ xù lông như chó ốm
Trời bôi nhòe mặt ngóng đêm sang
Thôn ổ tiêu sơ gầy khói bếp
Đồng không mốc thếch lạnh tro tàn
Có biết ta về không cố lý?
Mười năm chưa lạ mặt xóm làng
Sao phên giậu nghiêng đầu câm nín
Rơm rạ làm thinh chẳng hỏi han
Cổng khép rào vây vườn cỏ dại
Tường xiêu mái rách bóng nhà hoang
Ngõ vắng bàn chân như hụt đất
Tre già đang kể chuyện chôn măng
Nương rẫy đang phơi lòng dâu bể
Nói làm sao hết nỗi bàng hoàng?
Khóc làm sao vừa lòng cố lý?
Phải đây là cố lý ta chăng?
Đâu bóng mẹ già sau khung cửa
Và những người em mặt trái xoan
Đâu bóng chị hiền như hoa cỏ
Bên luống cà xanh liếp cải vàng!
Đất đá thở ra mùi u uất
Bốn bề hun hút rợn màu tang
Ai chết quanh đây mà cú rúc
Mà cơn gió lạnh réo hồn oan
Ai trong muôn dặm không về nữa
Cố lý mười năm mộng bẽ bàng
Cố lý mười năm ngày trở lại
Như ngày Lưu Nguyễn xuống trần gian!"
- 1972 (Sđd, tr. 20-21)
Bài Bên Sông mang âm hưởng Kinh Thi cổ thời:
Bên sông
“Chảy đi chảy đi / Hỡi sông buồn lắm
Nước thôi chờ chi / Thuyền xưa đã đắm
Người đi người đi / Trăm năm bến vắng
Xa hút bờ kia / Bóng người mây thoáng
Chảy mau chảy mau / Đời nông tình cạn
Mà nước quá sâu / Trăm chiều khổ nạn
Ta bơi qua sông / Mới hay đời nặng
Đời có như không / Tiếc gì tay trắng / Thôi thà rêu rong
Ta gieo xuống sông / Vỡ dòng nước chết
Nước đứng tim đêm / Ta còn thở hết?
Chảy đi chảy đi / Người về đâu biết
Chảy mau chảy mau / Đời: con nước xiết
Tình: vực nước sâu / Em: dòng ly biệt / Ta chiếc lá chìm
Chảy thôi chảy thôi / Còn trông còn ngóng
Nhớ ai gương xưa / Chờ ai cửa rộng
Đưa ai tiễn ai / Phai hình mất bóng
Khổ lắm người ơi / Qua sông mất nón
Sông trôi sông trôi / Về đâu mà đón / Thôi hẹn hò chi …
Với người xưa ấy / Đã khói sương che
Chút tình xa ngái / Đã cách bến bờ
Biết lòng không đậu / Trông chi thuyền về
Người như khung cửa / Khép lại hững hờ
Người như gương vỡ / Trăm năm lỗi thề
Người như phong vũ / Lạnh màu thê thê…"
- Tuy Hòa 1972 (Sđd, tr. 11-14).
Lời thơ không hẳn cổ kính, nhưng ý và tâm tình thì đơn thuần, mộc mạc như con người thuở hoang sơ sống an nhiên giữa một không-gian chưa cơ khí văn minh vật chất.
Cùng đề tài chiến-tranh và với bút hiệu Phạm Triều Nghi, Phạm Ngọc Lư trên đường qua Bắc Bình Định đã ghi nhận:
“... Tháng tư / Lửa bùng lên đầu chợ
Lửa cháy quanh sông / Lửa vây Đệ Đức
Lửa đốt Bồng Sơn / Người người tan xác giữa đồng
(…) Ngó về đâu không rợn màu tang tóc
Ngó Nam ngó Bắc / Nuốt tiếng thở dài
Ai đến Tam Quan thương vay?
Ai đến Sa Huỳnh khóc mướn?
Có nghe những oan hồn vất vưởng
Than van trên ngọn cờ bay
Kêu đòi thân thế hình hài
Trăm năm cát bụi... miệt mài cơn đau"
– Hè 1973
(Trên Đèo Bình Đê, TQBT, số 20, 7-2005, tr. 97, 99)
Lời thơ hiện thực nhưng sao đầy kêu thương, tra vấn và phẫn uất! Nghe như khúc chinh-phu thời hiện-đại, ở chốn chiến trường không còn là tên bay đạn lạc trong bão tố sương mù mà là bom rơi đạn nổ không chừa một ai hay một nơi nào!
Về truyện ngắn, Phạm Ngọc Lư đã có một số tác-phẩm đăng tạp-chí thời này, và trong số đã có những truyện khá đạt với một ngôn-ngữ văn-chương của riêng ông. Hiện sinh, siêu hình đã được Phạm Ngọc Lư khéo léo đưa vào các truyện ngắn như Mộng Thấy Mình Đã Chết, ...
Mộng Thấy Mình Đã Chết (Ý Thức, số 7, 15-1-1971) nói lên tâm thức Trang Hoa Kinh khi đứng trước Cái Chết như một hiện-trạng nhân sinh. Nhân-vật Tôi vẫn thường thấy Muội, người yêu chưa cưới và đã chết, nàng đến như mộng, như thật:
“Tôi quay lại, sát với mặt Muội bóng tối mỏng như tấm vải voan lờ mờ, chìm khuất. Chưa nói mà môi đã run lên vô cớ, tôi nghe lòng mình đang tỉnh táo, quang tạnh, khô buốt lại. Chung quanh, cả vùng biển lớn ngưng đọng, chết sững, sóng hết vỗ, nước đứng im. Muội, âm vang của trí nhớ trìu trĩu. Muội, người bạn gái sát mặt, bóng tối cứ loãng ra tựa một làn sương mềm. Tôi mấp máy nói, những tiếng cụt, giọng đơ, lưỡi líu. Ba năm, gớm thật. Mới đó đã ba năm dài; chim bay không tới, cánh rụng giữa trùng trùng thời gian xa hút. Can qua, máu lửa đã lớn dậy cùng ngăn cách trời vực. Muội, tiếng kêu hụt, chìm, nghẹn. Nàng quay đi, mặt áp vào một thân cây dừa khô, thở dài thườn thượt – dài hơn cả ba năm đằng đẵng, ý chừng hơn thế – và nói: “Em tưởng anh đã chết trong biến cố Mậu Thân ở Huế. Anh chết vỡ ngực, máu nhuộm đỏ cả chiếc sơ mi trắng nằm trước cổng nhà với cái tay nải còn rơi vướng cạnh đó...””. Tôi đã bỏ Huế, “Với Huế tôi đã chết. Muội không hiểu được lòng hờn oán, cay xót, mặc cảm… Huế dành cho tôi. Quả thật, tôi đã cầu mong cho cả thành phố ấy nổ tung lên. Ghê thay, tôi đã chết theo. Mẹ tôi, sau những ngày chạy loạn, đói, bệnh, thiếu cơm thiếu thuốc đã đau đớn lìa đời tại nhà một người bà con ở vùng quê. Bà chưa kịp về nằm giữa căn nhà đổ nát thở hơi thở cuối cùng như lời mong mỏi trăng trối lúc lâm chung, chưa kịp biết xác tôi có được ai chôn lấp đàng hoàng chưa hay đã bị heo chó rỉa rói mất rồi…”
“Tôi còn sống hay đã chết thật rồi? Cảm giác mập mờ bất định, ngỡ ngàng như những lúc soi kỹ mặt trong gương: có chắc gì cái hình bóng kia là vóc dáng thật, đúng, in hệt của mình? Người ta vẫn không ngớt cải dạng, giả trang đánh lừa đời sống phải cưu mang để được sống ra ngoài những quy định ước lệ của con mắt thiên hạ. Tôi không thể, không hề, không nuôi nổi óc tưởng tượng bệnh hoạn. Ngày ngày tôi vẫn cố bám riết níu theo dòng đời phăng phăng cuốn siết (mà vẫn bị hất tung, mất vuột). Để nhớ lại mình, biết mình có thật. Để tìm gặp Muội, Muội như tấm gương sáng, rõ, đúng, không thể lường gạt, phỉnh phờ những điều tôi muốn soi tìm, ngắm nghía. Ba năm, thời gian đã tráng thủy nhiều lớp mới, đã lồng bóng lũ lượt ảnh tượng xuống cái đáy ngưng đọng, bất biến. Nhưng đêm nay, giữa tình cờ gặp gỡ, trong bối rối chưa gạn lọc hết xúc động, Muội quá trong suốt, rỗng, phẳng và như thể nàng đã tự đập vỡ tấm gương, xé vụn hết thảy mọi hình ảnh mang nặng chồng chất, chịu đựng âm ỉ trong cõi trí nhớ tội đồ. Dường như nàng chực đợi được gặp tôi và vỡ òa.
“Anh Bạt chết một hôm trước ngày Huế được giải tỏa, người ta bắn lầm. Năm tháng sau, chị Vu sinh đứa con đầu lòng, phải mổ và tắt thở trên giường đẻ… Nhưng, bây giờ em tin cả anh Bạt và chị Vu và bao nhiêu người thân khác vẫn còn sống ở đâu đó. Như anh vậy. Không hẳn cái chết chỉ đến một lần! Anh, anh nói cho em biết, đời người chỉ một lần chết thôi sao?”. Muội nắm bàn tay tôi, sờ lên quần áo tóc tai, tôi đứng im như pho tượng quên thở, mất tiếng nói, tôi đang giả đò chết hay chết thật rồi cũng nên. Bạt ở kia, dáng cười cười nói nói, liến thoắng cháu lảy như đứa trẻ: “Mi để tau rước nàng về trước nghe? Sợ động viên không kịp cưới thì phiền lắm. Dễ chi đi lính rồi mình còn đủ lạc quan mà tính chuyện lấy vợ. Đó là chưa dám nói cái chết gờm sẵn từng phút giây bên mình… Để tết ra, vợ chồng tau lo cho mi với con Muội cái đám cưới thật ngon, chịu chưa?”. ”
Nhân-vật Tôi của Phạm Ngọc Lư gây liên tưởng đến Trang Tử của thời xa xưa, người chủ trương vui cái sống gắn liền với cái Chết - Ngoại thiên Chí Lạc chép truyện Trang Tử gõ bồn, theo đó sống chết cùng một thể, thế nên cứ vui sống cái sống gắn liền với cái Chết. Cái Chết hiện hình trong chiếc đầu lâu khô-khốc bên đường của cái sống. Cái Chết kề bên như trời che đất chở, và cái sống kề bên cái Chết, đầu lâu nói với Trang Tử trong mộng: chết còn vui sướng hơn sống nữa. Và thế là quên hẳn cả cái sống cùng cái Chết. Đó là đạt được thuật chí lạc đạt tới Đạo và quên hẳn cái sống và cái Chết. Tôi trong truyện Phạm Ngọc Lư sống thời chiến-tranh Tết Mậu Thân 1968 ở miền đất Thần-kinh cho nên thường tự vấn “Tôi đã chết? Con đò đưa linh hồn thả về bên kia bờ quá khứ cháy bùng lên, chìm xuống mặt biển sóng gió trùng trùng nô giỡn nhẫn tâm giữa nỗi quên lãng mông mênh ngút ngàn thiên địa tận. Đêm nay, trí nhớ chết đuối, cõi sống rã rời như những mảnh ván còn lại trong một vụ đắm tàu còn nổi lêu bêu dập dềnh. Nhưng tôi là con chim đen bay hoài trên mặt nước động không tìm ra khúc gỗ trôi nổi nào sà xuống trú chân. “Anh đã chết vào sáng sớm ngày mồng 7 Tết dưới gốc cây nêu trước ngõ. Em còn về ngoài đó, nhớ hôm giỗ anh ghé lại thắp giùm một nén nhang và hạ luôn cây nêu xuống”. Tôi nhớ đã ôm hôn Muội, hôn thật lâu trên cái nốt ruồi tai quái dưới khóe mắt. Ba năm trước. Đêm ngủ mê muội và mộng thấy ḿnh đã chết. Thức dậy, bàng hoàng không biết đang nằm ở đâu?”
Tình-yêu đóng vai chính trong một số truyện ngắn khác của Phạm Ngọc Lư. Một Chuyện Tình Phải Quên Đi (Văn, số 19 (228), 30-7-1973) vì ở trong một bế tắc: cha của Xuyên không chấp nhận gả con gái cho một nhà văn như nhân-vật Tôi, bên cạnh bế tắc của cuộc hiện sinh qua cái nhìn của tha nhân (“Tôi nhìn quanh, khó chịu trước các cặp mắt rình rập đang thỉnh thoảng ngó qua phía mình, soi mói, theo dõi.”, “ con nhỏ mặc áo vàng kia ở cạnh nhà em (là) cái loa phóng thanh của Ty Thông tin đó”, “thiên hạ đang ngó mình chằm chặp, ghê quá! - Những con mắt thối tha lác chột”) vì Tôi và Xuyên phải thường xuyên kín đáo hẹn hò trong “cái thành phố hẹp hòi độc ác”, Xuyên có khi “phải khổ sở ngụy trang làm người xa kẻ lạ ngay trước mặt tôi; giá chi gia đình Xuyên nghèo bớt đi một chút để tôi ít xót xa cho mình mà thương mến cuộc đời hơn”, ... Tôi đưa hận thù vào ngòi bút, tẩm độc ngòi bút để “giết” cho được người cha. Nhưng tình cũng cao chạy xa bay khỏi tầm tính toán của Tôi: người cha chết, Xuyên vào Sài-Gòn học dù thi rớt, rồi lấy chồng, rồi chồng chết trận. Ba năm sau gặp lại, tình với Xuyên lại vụt bay. “Mươi hôm sau tôi tìm lại được những trang bản thảo viết về mối tình của tôi và Xuyên ba năm trước, ngậm ngùi đọc. Xong, tôi gởi đến Xuyên kèm một cái thư rất ngắn: “Xuyên, anh vẫn yêu em như ngày nào. Ngày nào, tình ta thơ ngây tuyệt vời quá, em nhớ? Còn những dòng chữ nầy làm chứng. Em hãy đọc để hiểu lòng anh, cái tốt cái xấu của anh. Câu chuyện chỉ tạm thời kết thúc, anh nghĩ mình còn viết tiếp được bởi vì Trời đã cho hai nhân vật trong truyện tái ngộ và họ có lý do để gần nhau, sống hạnh phúc bên nhau. Em đồng ý?”. Ít hôm sau, Xuyên gởi trả lại tôi xấp bản thảo, không bày tỏ ý kiến gì ngoài ba chữ ngắn ngủn nàng viết thêm vào sau cái tựa đề của truyện. Thành ra: MỘT CHUYỆN TÌNH PHẢI QUÊN ĐI!”.
Tàn Đông (Bách Khoa, số 344, 1-5-1971) kể chuyện tình thời chiến của Kiền thầy giáo mới đổi từ tỉnh lên vùng cao nguyên (?) và người bạn gái tuổi chị, công tác ở chi y tế cho người dân-tộc thiểu số, cùng thuê chung nhà, ở một “nơi rừng sâu nước độc nầy, Kiền mang cảm tưởng tội nghiệp của con thú đang chờ thời mọc cánh. Vâng, phải có cánh mới bay vượt qua khỏi trùng lũy đồi núi chồng chất vây bủa chung quanh. Núi Cấm hiểm trở, núi Một vòi või, núi Lá rậm rì… và rừng Hỏa-thán thâm u, rừng Hàm-long điệp điệp. Suốt tháng nay chưa có một ngày nắng lớn, mặt trời không xé nổi mây, mây tụ tập càng lúc càng dày, xuống thấp mãi, sát ngọn cây, đụng chóp nhà, cho đến một buổi sáng mở cửa ra: mặt đất mù mịt như có khói lan tỏa, sương kín dày, khí lạnh phả vào mặt, xanh tái da”.
Không-gian buồn hiu, cuộc sống lặng lờ trôi, thân phận như lưu đày, trống vắng, cuối cùng cả hai đã đến với nhau:
“Người bạn gái uốn cong mình giẫy giụa, mặt nhăn nhó đau đớn, kêu khan:
- Đè chặt tôi lại coi… Sao cứ bay bổng lên!
Kiền e dè cúi xuống dằn tay bạn. Bất ngờ nàng ôm chầm lấy anh lôi ngã sấp lên ngực, hơi thở nóng ran, hổn hển, dồn dập. Kiền nhúc nhích cựa nhẹ mình nhưng không dám gỡ vòng tay bạn đang quấn quýt siết chặt trên lưng. Anh cứ dại dột nghĩ nếu xô bạn ra chắc nàng sẽ chới với chết mất.
- Chị không đến nỗi nào chứ?
Kiền nói lắp bắp, không ngoi lên khỏi sự lo âu trìu trĩu. Người bạn rên hừ hừ, mắt nhắm kín, miệng lại ú ớ nói sảng. Trời đổ mưa rào rào bên ngoài, càng lúc càng dữ dội. Căn nhà hình như chôn chân trên mặt nước xô động chòng chành. Mồ hôi bạn thấm ướt áo, Kiền se lạnh. Vòng tay quanh lưng nới lỏng dần rồi nàng khẽ đẩy anh ra, nằm ngay người, kéo chăn đắp tới cổ. Kiền ngỡ ngàng nhổm dậy, rời khỏi giường, chóng mặt, lảo đảo. Tiếng ngựa hí ngoài chuồng tựa tiếng cười nhạo báng vang lên từng chặp. Dứt mưa, cái im lặng quanh nhà thật sắt se, không một tiếng giun dế, có lẽ chúng ngủ quên hay đã chết tiêu dưới lòng đất úng thủy từ lâu, cả tháng nay kẻ nhớ nhà không còn nghe giọng kêu ca nỉ non đứt ruột (…) Bỗng một tiếng nổ vang ầm rung đất. Từng tràng súng khác nổ tiếp theo, nghe quá gần, đâu dưới xóm chợ, càng lúc càng gần thêm, phía trường học, trụ sở xã. Trời sáng rực bên ngoài, hình như có lửa cháy. Mé sông, ngoài vòng đai chi khu, đạn nổ rát hơn. Súng cối bắn đùng đùng tới tấp, bay vèo vèo trên đầu. Vách nhà rung chuyển liên hồi. Phòng trong người bạn kêu ơi ới. Kiền sực nhớ, bỏ chỗ núp dưới gầm phản chạy vào, thở hào hển, cứng miệng nói không ra tiếng. Anh lôi bạn xuống khỏi giường, nàng thất thần ngã vào người anh mềm nhũn như kẻ vừa trúng đạn chết không kịp ngáp”.
Tiếng nổ đó cùng lúc đã làm sập một góc mái lớp học của Kiền!
Tình Hoài (Văn, số 210, 15-9-1972) là truyện khá thành công về kỹ thuật truyện ngắn và truyện như một tự sự hoặc tác-giả không ở ngoài câu chuyện. Một chuyện tình nhưng không bình thường vì nhân-vật xưng Tôi (L., viết tắt) và Tố Nương trên danh nghĩa là chị em, nhưng mẹ nàng, Dì Thuận, thời son trẻ từng là người yêu của cha của L. trước khi ông lập gia-đình. Dì cũng lấy chồng,
“ông Hồng Tố. Ông ta với ba tôi là đôi bạn nối khố từ thuở hàn vi, từng đi kháng chiến với nhau, giữa hai người, lý tưởng chí hướng như một định mệnh vô tình trói buộc lấy nhau không rời nửa bước, họ khác nào hình với bóng, sóng với biển, núi và rừng. Đến nỗi cả hai cùng yêu chung một thiếu nữ, tình cảm người nầy chính là tâm sự kẻ kia. Sau rốt, ba tôi, kẻ chưa muốn trói chân vào hệ lụy thê nhi, tự ý rút lui khỏi cuộc chơi tình cảm tay ba, để cho bạn mình tiến tới hôn nhân với người-ấy. Người-ấy chính là dì Thuận ngày nay. Hai năm sau, trên đường xuôi ngược Nam Ngãi Bình Phú, ba tôi gặp một cô gái bơ vơ ở Bồng Sơn, cưới làm vợ: mẹ tôi đấy. Dường như ông lấy vợ cốt để cho bạn mình yên tâm và người-ấy khỏi bồn chồn?”.
Mẹ chết sớm (“Giả như ông nghĩ đến bổn phận gia đình mà ném gói hành trang đi, dừng gót giang hồ lại thì chưa chắc mẹ đã chết yểu trong lạnh lẽo côi cút. Với tôi, có cha cũng chẳng khác nào mồ côi cha, đời nầy, tình phụ tử vốn đạm bạc, trong cảnh huống tôi, nó càng mơ hồ mong manh gần như không. Nhớ mẹ, tôi thẫn thờ bước ra vườn đến bên cụm hoa hồng trắng, những nụ hoa buồn tẻ lạc loài giữa các khóm hải đường, thược dược, cúc đại đóa rực rỡ khoe tía phô hồng, trêu cợt gió đưa bướm lượn”).
Cha của L. thường khuyên con cư xử với dì Thuận như dưỡng mẫu, nay ông đi mất biệt, hành tung của ông chỉ dì Thuận là biết rõ. Sống chung lâu ngày dưới cùng mái nhà dì Thuận, L. thầm yêu Tố Nương.
“Tôi vùng vằng ném mạnh cái chổi xuống chân. Tố Nương sửng sốt, hai tay đưa ra chới với như thể muốn đỡ lấy nó. Căn phòng hình như vừa rung rinh lảo đảo. Tôi tỉnh táo biết mình vừa làm một cử chỉ bất nhã, vô cùng bất nhã. Hậu quả: hai giọt nước mắt ứa ra long lanh trong đôi mắt mở lớn chị đang đăm đăm ngó tôi, lạc thần. Chặp lâu, tôi bước đến, khe khẽ cầm cổ tay chị, dường như chị vẫn chưa tỉnh cơn chết giấc. Tôi từ từ nâng bàn tay chị lên và tát mạnh vào má mình. Chị bàng hoàng rút tay lại, chớp mắt, hai giọt nước mắt rơi nhanh xuống nền xi-măng vỡ ra thành hai chấm lớn.
Tôi ngẩng đầu lên nhìn sững chị, ấp úng: - Giận tui không?
Tố Nuơng mím môi chặp lâu.
- Giận tui không?
Chị khẽ lắc đầu.
- Tui đáng ghét lắm phải không?
Lắc đầu.
- Chị... thương tui không, thương không?
Tố Nương cúi đầu, tôi cũng cúi đầu theo: hai giọt nước mắt trên nền nhà vẫn chưa khô, chị dí ngón chân trần xóa đi.
Suốt tuần lễ sau đó, chúng tôi không gặp nhau dù vẫn loáng thoáng thấy bóng nhau hàng ngày, đúng ra, Tố Nương lánh mặt tôi và ngược lại. Thời gian nầy, tâm hồn tôi như quyển sách vừa lật qua trang mới, là lạ hay hay; một cảm giác mới, ngỡ ngàng thèn thẹn vui vui.
Chị thương tui không? Im lặng cái đầu. Nghĩa là gì?
Ngờ đâu, cái “im lặng cúi đầu” đó (vì không có cách nào biểu lộ khác hơn, ý nghĩa hơn chăng?) là một liều thuốc hiệu nghiệm trị dứt chứng “bệnh cảm xoàng” đeo đẳng trong đầu tôi lâu nay. Tôi quên bẵng giấc mộng ra đi. Đi đâu nữa? Quả thật dì Thuận nghĩ đúng, sự ham thích gàn bướng ương dở ấy chỉ nhất thời phút chốc. Một cái gì mơ hồ đang trói chân buộc đời tôi ở lại đây? Riêng Tố Nương cũng có một thay đổi lớn ai cũng thấy rõ: chị không còn cười đùa luôn miệng tối ngày như trước nữa. Vâng, chị biết khóc rồi mà, lần đầu tiên (?), hai giọt nước mắt thần thánh, vì tôi. Vì tôi hết!
Đang mùa trăng sáng, dường như tâm hồn tôi cũng sáng trăng theo. Biết diễn tả làm sao cho bạn hiểu những rung động dịu dàng đang giao thoa với thiên nhiên vạn vật về đêm, những cảm xúc tinh ròng trong vắt màu trăng suông, những nôn nao rạo rực trong lòng tôi. Lòng tôi mặc áo mới. Lòng tôi đang khai hoa!”.
Cuộc chia tay nào mà không có nét buồn, nhất là khi đã có tình với nhau:
“Tố Nương lặng thinh không có ý kiến trước cuộc chia ly “thảm khốc”.
- Về trong đó rồi, L. sẽ trở ra chứ?
- Chưa biết được, tùy ý ba.
- Biết rồi, L. cũng muốn xa mình mà.
Tôi cuống lên tìm cách giải oan cho lòng mình mãi mà líu lưỡi nói không được. Xúc cảm bồi hồi nghẹn ngang ngực:
- Chị nghĩ láo! Tại ba tôi. Cả dì nữa, bây giờ dì muốn đẩy tôi đi khỏi nhà, dì không nói ra nhưng mình dư biết. Dưới mắt dì, tôi đâu có xứng đáng với chị...
- Thôi thôi thôi. Đừng chọc mình khóc, tội nghiệp mình lắm.
Tố Nương bỏ chạy vào nhà, hẳn chị bật khóc một mình trong phòng? Còn đâu nụ cười ngày nào, cười lúm má đồng tiền, cười duyên mủm mỉm, cười chúm chím thẹn thùa thơ ngây? Tôi đứng ngẩn ngơ giữa vườn, xác hoa rụng đầy mặt đất mà Tố Nương bỏ bê không thèm quét dọn. Cụm hồng trắng vẫn nở bông héo muộn dưới cơn nắng lửa đầu hè. Làm sao bứng cây hoa nầy về trồng dưới chân mộ mẹ?”
L. về với cha đem theo cái hộp mà khi đưa, Tố Nương đã dặn: “Chừng nào ngồi trong lòng phi cơ bay giữa trời mây rồi, L. mới được phép mở hộp ra. Nếu bất tuân sẽ gặp 'tai nạn'”. Bí mật tồn đọng vì L. đánh mất cái hộp!
Hà Châu (Văn, 11-1972) mà Nghi được Cẩn giới thiệu đã trở thành thần tượng tình-yêu được Nghi vẽ vời thành Mộng (“tuyệt thế giai nhân”, “quý phái thơ mộng”), và khi Nghi khổ công từ Huế tìm đến nhà ở Hội An đã bị vỡ Mộng, vì Thực sẽ là một cô gái tên Chu bình thường - nhưng Nghi đã lỡ nên vẫn muốn ấp ủ hình bóng một Hà Châu trong Mộng. Trong khi Chu thì biết mình đang tham gia một trò chơi thú vị nhưng cũng nguy hiểm. Cuối cùng, họ lấy nhau và sinh con đặt tên là Hà Châu như đồng nghĩa với hạnh-phúc tìm thấy! Chuyện của những chàng trai lãng-mạn mới trưởng thành vào đời! Cũng nhẹ nhàng truyện tình còn có Cây Ngọc Lan Trong Vườn (Tuổi Ngọc, số 60, ngày 28-9-1972), ...
Ngoài ra là những truyện ngắn về thời chiến như Cuối Ngày, Cuối Đường (Văn, 223, 1973), Cái Đuôi Sao Chổi (Ý Thức), về những bất hạnh, tang thương của người dân và dĩ nhiên cả những người yêu thương nhất cũng không thể tránh khỏi, Phạm Ngọc Lư viết lên như chứng nhân hơn là người trong cuộc. Truyện Nhà Hầm (Văn, số 140, 15-10-1969) kể một chuyện tình đẹp thời chiến. Khởi từ nhà hầm trú mà cả gia-đình nơi Huỳnh ở trọ thường xuyên phải xuống trú ẩn để tránh bom đạn, pháo kích. Con người gần gũi nhau không lựa chọn trong một diện tích thu hẹp, cọ xát là chuyện thường: Huỳnh và Cúc cọ da thịt, cơ thể áp sát, cùng hơi người và thèm muốn dục vọng bất chợt, ...
“Những con muỗi bay vo ve tìm da hút máu nghe vẫn rộn rã om sòm hơn thứ bóng tối nặng nề âm thanh súng đạn chung quanh, Huỳnh nghĩ dại giá lúc này một trái đạn vô tình trổ nóc nhà rớt lọt xuống hầm nổ tung… chắc mình cũng không biết gì, dưới tay, da Cúc nhớp nháp mồ hôi, trong đêm mà nỗi run sợ như màng lưới dày mắc ràng rịt cảm giác, Huỳnh ngờ ngợ cái khối mình đang ôm cứng (để trấn an những cảm giác chết chóc) không phải là một sinh vật, một người đàn bà dù đang héo hon bám giữ từng chút sự sống. Cúc vẫn thiếp đi trong nỗi im lặng cần có chỗ tựa. Rồi Huỳnh cũng chỉ là một bao cát thừa thãi chẳng biết chất thêm vào đâu, chàng chẳng tìm thấy gì, ngày thường đời Cúc vẫn thu khép lẩn trốn vào căn hầm riêng của chỗ tâm hồn ủ dột. Chút thèm muốn nào đó bất ngờ nhú lên nhỏ nhoi như hạt cát đang rục rịch trong bao cát dưới lưng, không chừng Cúc lường được mức độ tham lam quá đáng nơi bàn tay Huỳnh, nàng khẽ đẩy chàng ra dành lại tấm chăn cuốn quanh mình. Có nhiều tiếng chân chạy thình thịch ngoài đường, súng nổ tạt qua phía cổng, một vật gì bằng thủy tinh vỡ loảng xoảng ở nhà ngoài, Cúc ôm chầm lấy Huỳnh ghì đầu chàng vào ngực. Huỳnh thử lắng nghe nhịp tim Cúc đập hối hả, ngoạm lấy áo Cúc nhai kín miệng”.
Huỳnh ở trọ nhà bà Bé và Cúc, còn Cúc không chừng trong vô thức đã gần gũi Huỳnh! Khi tiếng máy bay quần trên bầu trời đã xa, mọi người ra khỏi hầm khám phá có xác chết một thanh niên du kích 17, 18 tuổi theo VC đã chết trước nhà. Huỳnh lên cơn sốt, được Cúc chăm sóc tận tình, cảm động. Huỳnh tỏ tình nhưng Cúc từ khước, nên lành bệnh là Huỳnh bỏ đi. Sau này Cúc gởi thư cho Huỳnh, bộc bạch tâm tình đối với Huỳnh nàng xem như em trai.
“Anh bảo yêu tôi ờ – anh có quyền, tuổi trẻ, sự đam mê cộng với cơn sốt nung nấu giữa cái không khí im lặng chết người đêm đó anh còn nói được trăm ngàn câu bốc đồng khác, bởi tôi chẳng còn gì để từ chối hay chấp nhận. Tôi vẫn sống đẩy đưa lơ lửng chẳng chân thật với mình chút nào. Hai mươi tám năm nay từ một kẻ tình phụ, chinh phụ rồi góa phụ, tôi là người con gái không được lớn lên bằng từng đốt tuổi đàn bà, trái lại bằng mỗi tảng đá nặng đè dí mình xuống, lạ quá chớ anh!”.
Huỳnh ra trường chuẩn úy, tìm về nhà cũ nơi có nhà hầm chiến-tranh và tình ái, nhưng không gặp Cúc...!
Phạm Ngọc Lư đã có hơn chục truyện ngắn đăng báo trước 1975 và qua vài truyện ngắn tìm lại được nhân Thư Quán Bản Thảo ra số đặc-biệt về nhà văn, chúng tôi có cảm tưởng tác-phẩm của ông có điểm khác các nhà văn trẻ cùng thời đó. Có chiến-tranh nhưng không nhất thiết là đề tài chính, có tình-yêu nhưng không xuôi chảy, trơn tru, dễ dàng, có hiện thực đời-sống đang xảy ra nhưng rốt cùng chỉ là cái cớ, có triết lý nhưng cũng không phải để thuyết phục người đọc,... vì thiển nghĩ truyện và thơ ở Phạm Ngọc Lư đã đụng đến cái lõi nhân bản qua các phác thảo, nhận định, đã là những diễn biến tâm sinh lý ông trình bày để nhân-vật tự xuất hiện. Riêng lời văn con chữ mang thi tính đặc sắc, chọn lọc:
“Mới đó đã ba năm dài; chim bay không tới, cánh rụng giữa trùng trùng thời gian xa hút. Can qua, máu lửa đã lớn dậy cùng ngăn cách trời vực”, “thời gian đã tráng thủy nhiều lớp mới, đã lồng bóng lũ lượt ảnh tượng xuống cái đáy ngưng đọng, bất biến”, “cả thành phố đó tựa một cái khung mờ thu hẹp giữa ký ức từ lâu, vàng son sơn thiếp của tuổi nhỏ ngọc ngà đã cháy rụi” (Mộng Thấy Mình Đã Chết),
“những con mắt thối tha lác chột”, “thành phố hiu hắt như một góa phụ”, “lòng tôi lúc này lại sưng vù tê buốt như có hàng triệu con ong con kiến đang phũ phàng đua nhau châm đốt”, “bao buồn bực trong lòng tôi đang dần dần đóng váng (…) lòng tôi chùng xuống, mềm rười rượi như sợi bún tàu vừa nhúng nước. Tôi đem sợi bún này ngắt ra từng khúc trải lên trang giấy thành những dòng chữ gởi Xuyên, hy vọng nó mang đến cho nàng một món ăn nhấm nháp đỡ lòng” (Một Chuyện Tình Phải Quên Đi), v.v…
Chữ Hán và điển tích cũng được Phạm Ngọc Lư sử-dụng một cách khôn khéo và khi cần. Tóm, muốn hiểu tâm thức con người miền Nam nhất là những người trẻ, trí thức thời chiến trước 1975, hãy tìm đọc thơ văn của Phạm Ngọc Lư – cũng như các nhà văn trẻ khác cùng giai đoạn.
(Montréal, 19-5-2016)