Văn xuôi mới của ta, như Chương thứ ba đã nói, sở dĩ thành lập được, một phần lớn là nhờ các báo chí. Trong các nhà viết báo có công lúc buổi đầu, phải kể Nguyễn Văn Vĩnh và ông Phạm Quỳnh.
Học giả Nguyễn Văn Vĩnh
(1882 - 2.5.1936)
Tiểu truyện - Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) là người làng Phượng vũ thuộc phủ Thường tin, tỉnh Hà đông. Sau khi tốt nghiệp trường thông ngôn (Collège des interprètes) năm 1896, ông được bổ làm thư ký toà sứ. Năm 1906 ông được cử đi dự cuộc đấu xảo ở thành Marseille. Lúc về ông xin từ chức để lập doanh nghiệp . Thoạt tiên ông cùng với một người Pháp mở một nhà in ( có xuất bản cuốn Kim Vân Kiều và bộ Tam Quốc chí diễn nghĩa dịch ra quốc ngữ mà trong bài tựa ông có viết câu này : “Nước Nam ta mãi sau này, hay dở cũng ở chữ quốc ngữ ”) . Đến năm 1907, ông bắt đầu vào làng báo, làm chủ bút tờ Đại Nam đăng cổ tùng báo ( ký biệt hiệu là Tân Nam tử ); năm 1908, ông đứng chủ trương tờ Notre journal ( xuất bản trong hai năm 1908-1909), ông mở tờ Notre revue ( xuất bản được 12 số ); cũng năm ấy, ông làm chủ bút tờ Lục tỉnh tân văn ở Sài Gòn, năm 1913, ông làm chủ bút tờ Đông dương tạp chí ở Hà Nội, năm 1915, ông lại kiêm làm chủ bút tờ Trung Bắc tân văn ( cả ba tờ báo này đều do một ngƣời Pháp là Schneider sáng lập ). Năm 1919, ông đứng làm chủ nhiệm tờ Trung Bắc tân văn bắt đầu ra hàng ngày (đó là tờ báo hằng ngày đầu tiên ở Bắc kỳ ) và tờ Học báo. Năm 1927, ông cùng với ông Vayrac lập ra một bộ tùng thƣ đặt tên là Âu Tây tư tưởng ( La pensée de l’Occident ) để in các tác phẩm do ông dịch ở chữ Pháp ra . Năm 1931, ông mở tờ báo chữ Pháp nhan là Annam Nouveau, ông vừa làm chủ nhiệm và chủ bút.
Trên đường chính trị, ông từng làm hội viên hội đồng thành phố Hà nội trong mấy khoá. Tự năm 1931 , ông làm hội viên Viện tư vấn Bắc kỳ ( sau đổi làm Viện dân biểu ) và có chân trong Đại hội nghị Đông Pháp từ khi mới lập ra .
Tác phẩm – Tác phẩm của ông gồm có hai phần : phần trứ tác và phần dịch thuật .
A) Trứ tác – Ông có viết nhiều bài luận thuyết, ký sự đăng trên các báo chí như Xét tật mình (Đông dương tạp chí tự số 6 trở đi ). Phận làm dân (Đ. D. T. C. tự số 48 trở đi ), Chỉnh đốn lại cách cai trị dân xã (Đ. D. T.C. tự số 61 trở đi ); Nhời đàn bà ( ký biệt hiệu là Đào Thị Loan , Đ.D.T.C., tự số 5 trở đi ) . Hương sơn hành trình, Đ.D.T.C., số 41-45 ), v.v. Những bài ấy tỏ ra rằng ông là người rất hiểu dân tình phong tục nước ta và biết nghị luận một cách xác thực .
B) Phần dịch thuật - Phần này là phần quan trọng nhất trong văn nghiệp của ông . Ông có dịch vài tác phẩm của ta và của Tàu ra chữ Pháp : Kim Vân Kiều tân diễn Pháp văn (Đ.D.T.C., tự số 18 trở đi ), Tiền Xích bích và Hậu Xích bích (Đ.D.T.C., lớp mới , số 66-68 ). Nhưng ông dịch nhiều tác phẩm chữ Pháp ra tiếng Nam và dịch đủ cả các lối văn : văn luận thuyết. Luân lý học (Đ.D.T.C., số 15 trở đi ) . Triết học yếu lược (Đ.D.T.C., số 28 trở đi ; văn ngụ ngôn ; Thơ ngụ ngôn ( Fables ) của La Fontaine; văn truyện ký : Chuyện trẻ con (Conte ) của Perrault, Truyện các bậc danh nhân Hy lạp và La mã ( Les vies parallèles des hommes illustres de la Grèce et de Rome ) của Plutarque, Sử ký thanh hoa ( Le parfum des humanités ) của Vayrac, P.P. Ông sở trƣờng nhất về việc dịch văn tiểu thuyết và hài kịch . Về tiểu thuyết, ông đã dịch những bộ Truyện Gil Blas de Santillane của Lesage . Qui – le – ve du ký (Les voyages de Gulliver ) J. Swift, Tê-lê- mặc phiêu lưu ký ( Les aventures de Télémaque ) của Fénelon, Truyện ba người ngự lâm pháo thủ ( Les trois Mousquetaires ) của Alexandre Dumas, Mai nương Lệ cốt (Manon Lescaut) của Abbé Prévost, Truyện miếng da lừa (La peau de chagrin) của Honoré de Balzac, Những kẻ khốn nạn (Les misérables) của Victor Hugo. Còn về hài kịch ông đã dịch những vở của Molière: Bệnh tưởng (Le malade imaginaire), Trưởng giả học làm sang (Le bourgeois gentilhomme), Người biển lận (L’avare), Giả đạo đức (Tartufe), và của Lesage: Tục ca lệ (Turcaret).
Văn nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh
– A) Về tư tưởng – Ông là người học rộng, biết nhiều, lại có lịch duyệt, thiệp liệp tư tưởng học thuật của Âu tây, nhưng cũng am hiểu tín ngưỡng phong tục của dân ta, muốn đem những quan niệm phương pháp mới nào hợp thời để truyền bá trong dân chúng, nhưng cũng chịu khó tìm tòi và biểu lộ cái dở, cái xấu cũng như cái hay, cái ý nghĩa của các chế độ, tục lệ xưa của các mối mê tín, dị đoan cũ; vì thế, có người hiểu lầm mà trách ông muốn đem những điều tin nhảm, những cái hủ tục mà tán dương và khôi phục lại (như trong việc in cuốn Niên lịch thông thư trong có biên chép ngày tốt ngày xấu và kê cứu các thuật bói toán, lý số).
B) Về văn từ - Văn ông bình thường giản dị, có tính cách phổ thông, tuy có châm chước theo cú phép của văn tây mà vẫn giữ được đặc tính của văn ta. Ông lại chịu khó moi móc trong kho thành ngữ, tục ngữ của ta những từ ngữ có màu mẽ để diễn đạt các ý tưởng (cả những ý tưởng mới của Âu tây) thành ra đọc văn dịch của ông tưởng chừng như đọc văn nguyên tác bằng tiếng Nam vậy. Kể về văn dịch tiểu thuyết thì thực ông là người có biệt tài, ít kẻ sánh kịp vậy.
Kết luận – Ông Vĩnh có công diễn dịch những tiểu thuyết và kịch bản của Âu tây và phát biểu những cái hay trong tiếng Nam ra; ông Quỳnh thì có công dịch thuật các học thuyết tư tưởng của Thái tây và luyện cho tiếng Nam có thể diễn đạt được các ý tưởng mới. Đối với nền văn hoá cũ của nước ta, thì ông Vĩnh hay khảo cứu những phong tục tín ngưỡng của dân chúng, mà ông Quỳnh thường nghiên cứu đến chế độ, văn chương của tiền nhân.
Văn ông Vĩnh có tính cách giản dị của một nhà văn bình dân, văn ông Quỳnh có tính cách trang nghiêm của một học giả. Tuy văn nghiệp của mỗi người có tính cách riêng, nhưng hai ông đều có công với việc thành lập quốc văn vậy.
Các Tác Phẩm Để Kê Cứu:
1. Nguyễn Văn Tố, L’oeuvre de M. Nguyễn Văn Vĩnh, BSEMT t. XVI. pp 40 – 68.
2. Thiếu sơn, Phê bình và Cảo luận Văn học Tùng thư, Editions Nam kỳ, Hà nội 1933.
3. Đào Đăng Vỹ, Enquête sur la jeunesse annamite, La jeunesse intellectuelle, V. – Les écrivains et les journalistes (La Patrie annamite, nos du 2-1-1937 et ss).