Thi sĩ với nhiều bài thơ biên cương, nhà thơ Kim Tuấn, mất lúc 1 giờ sáng ngày 11 tháng 9, 2003.
(Hình: Ðinh Cường)
Nguyễn Bính được mệnh danh là thi sĩ chân quê, bởi thơ ông viết về con người và khung cảnh nông thôn miền Bắc, mặn mà đến nỗi khi người thiếu nữ ông yêu đi Hà Nội về, chỉ một thay đổi nhỏ đã làm ông cảm thấy bị mất mát: “Hôm qua em đi tỉnh về / Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.”
Ðinh Hùng được hiểu là thi sĩ của rừng thiêng, không phải vì ông sinh ra ở Sa Pa, Sầm Nứa, mà bởi cả cuốn Mê Hồn Ca là những bài thơ dị kỳ, lại còn thêm thi tập “Tiếng Ca Bộ Lạc,” và nhân vật hung dữ tàn phá kinh thành, hủy diệt giai nhân “có mấy linh hồn,” “vong bản,” “là ma là quỉ,” và “Bên thành quách ta ra tay tàn phá / Giữa hoang loạn cả lâu đài đình tạ / Ta thản nhiên đi trở lại núi rừng / Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng.”
Ở Miền Nam, chỉ một bài thơ xuất thần mà thơ Hoàng Trúc Ly được coi là thơ Liêu Trai, “Từ em tiếng hát lên trời / Tay xao dòng tóc tay vời âm thanh,*” [*Lưu ý chữ xao: xao như thôi-xao (gõ, đánh, đẩy, xao-động… Việt Nam Tự Ðiển Lê Văn Ðức - Lê Ngọc Trụ.] Chỉ vài năm sau, có một số thi sĩ tuy là nổi bật, mà vì miền Nam sau 1963, sau đảo chính và chỉnh lý, sau Mỹ quân đổ bộ Ðà Nẵng 1965 và Cộng quân cuồng sát Mậu Thân ở Huế 68, thơ lắng chìm, các thi sĩ quân nhân rời đồng bằng, rời thành phố hải cảng, rời cát trắng biển xanh vác súng lên rừng, đóng đồn hạ trại trên các triền núi, những Kontum, Pleku, những Darlac, Ðức Lập, những bản Mường heo hút, và những thung lũng rình chờ… Từ đó, họ đã đem núi rừng vào thơ, họ đã tạo sương mù đất đỏ thành vần điệu, họ là Vũ Hữu Ðịnh, là Phạm Ngọc Lư, là Trần Văn Sơn, là Kim Tuấn.
Các thi sĩ ấy hẳn đã làm thơ từ trước đó, và núi rừng đã ở đấy từ trước đó, song trước khi họ vác súng đến, núi rừng là núi rừng, thơ là thơ, chưa có thơ núi rừng, và thơ miền Nam chưa có mảng thơ nào mà mầu rừng sắc núi lại thân yêu đến thế, hùng vĩ đến thế:
Biên cương biên cương chào biên cương
Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương
Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
Núi chập chùng như dẫy mồ chôn
Gớm, gió Lào tanh mùi đất chết
Thổi lấp rừng già bạt núi non
Mùa khô tới theo chân thù địch
Ta về theo cho rậm chiến trường
Chiến trường ném binh như vãi đậu
Ðoàn quân ma bay khắp bốn phương
Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi
Núi mang cao điểm ngút oán hờn
Ðá mang dáng dấp hình chinh phụ
Chơ vơ chóp núi đứng bồng con.
(Phạm Ngọc Lư, Biên cương hành)
Phố núi cao phố núi đầy sương
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
Anh khách lạ đi lên đi xuống
May mà có em đời còn dễ thương.
Phố núi cao phố núi trời gần
Phố núi không xa nên phố tình thân
Ði dăm phút đã về chốn cũ
Một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng
Em Pleiku má đỏ môi hồng
Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
Nên mắt em ướt và tóc em ướt
Da em mềm như mây chiều trong
Xin cảm ơn thành phố có em
Xin cảm ơn một mái tóc mềm
Mai xa lắc trên đồn biên giới
Còn một chút gì để nhớ để quên.
(Vũ Hữu Ðịnh, Còn một chút gì để nhớ)
Ðêm nằm nghe vượn hú
Ba lô, súng gối đầu
Mắt mở trừng không ngủ
Rừng tiếp rừng âm u
(Trần Văn Sơn, Ðêm kích ở dốc Ðồn Ðiền)
Trong số này, nhà thơ Kim Tuấn lại làm nhiều thơ nhất về núi rừng cao nguyên miền Nam, cả chục bài. Tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Khuê, có nơi viết anh sinh ngày 15 tháng 10, 1940 tại Huế; sách Võ Phiến (Tổng quan Văn học Miền Nam) viết Kim Tuấn sinh năm 1937; báo Người Lao Ðộng trong nước và Người Việt ở Quận Cam soạn lại thành tin ngày 11 tháng 9, 2003 viết anh sinh năm 1938 tại Hà Tĩnh, là hậu duệ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm; chúng tôi không rõ nguồn tin nào đúng. Kim Tuấn làm thơ vào khoảng 1959, có tác phẩm nhan đề Hoa Mười Phương, hình như cùng với nhiều người, đến năm 1969 in chung với Ðịnh Giang thi phẩm Ngàn Thương. Sau đó có in Dấu Bụi Hồng 1971, Thơ Kim Tuấn 1975, Thời của Trái Tim Hồng 1990. Tuổi Phượng Hồng 1991 rồi Tạ Tình Phương Nam 1994. Thời gian trong quân ngũ Kim Tuấn phục vụ tại Quân Ðoàn II ở Pleiku, đây chính là thời gian anh làm nhiều thơ về núi rừng nhất, hơi thơ mạnh và có nhiều khác biệt, từ nơi này qua chốn khác như Bản Hét, Pleime, Pleimrong, Ðức Cơ, Ðức Lập, Hạ Lào…
Men say chất ngất chiều chưa khuất
Tây Bắc rừng xanh màu lá xanh
Tây Bắc người đi chưa trở lại
Sông buồn con nước chảy loanh quanh
(Xuân trên đầu núi)
Bản Hét ta chào mi đấy nhé
Chiều mưa che khuất núi đồi xa
Chiều mưa ta đứng trên đầu gió
Thương mình hơn những bóng mây qua
Bản Hét thương đời anh lính trẻ
Quanh năm chờ phép về thăm nhà
Quanh năm trấn thủ đời gian khổ
Hầm đất nhìn quanh ta với ta.
(Trên vùng Bản Hét)
Những người thi sĩ cầm súng ấy đã góp phần gìn giữ quê hương nơi núi đồi hoang vu vào thời xanh tóc và thắm mộng, các bạn đã thiệt thòi biết bao, nhưng tôi tin rằng Sử Thi Việt Nam sau này khi văn hiến được phục hồi, khi nói tới núi rừng lãnh thổ, thi ca biên cương thời thập niên 70, phải nói tới thế hệ Kim Tuấn.