2-5-2020 | VĂN HỌC

Vĩnh Biệt Nữ Sĩ Hoàng Hương Trang

  NGUYỄN PHÚ YÊN


    Nữ sĩ Hoàng Hương Trang
      (1938 - 16.4.2020)

Tin từ Long Xuyên cho hay Nữ sĩ Hoàng Hương Trang đã từ giã cõi đời vào lúc 6g sáng hôm qua 15-4 và được hỏa táng vào lúc 16g chiều hôm nay 16-4-2020, hưởng thọ 84 tuổi. Chị bị ung thư gan giai đoạn cuối nhưng bản thân chị không hay biết. Chỉ mấy hôm trước chị chỉ cho biết người rất mệt sau khi đi khám bệnh ở Bệnh viện Long Xuyên trở về. Tro cốt sẽ được đưa về Huế và chôn tại ngôi mộ trên một ngọn đồi do chị tự lập từ năm 2011.


Nữ sĩ Hoàng Hương Trang tên thật Hoàng Thị Diệm Phương, sinh năm 1938 (khai lùi tuổi), quê quán làng Vân Thê, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên-Huế, là nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ, nổi tiếng ở Miền Nam trước và sau năm 1975. Chị xuất bản tập thơ “Khép đôi mi nhỏ” vào năm 1956 năm chị 18 tuổi. Thật ra chị làm thơ từ năm 12 tuổi; có lần nhà thơ Hồ Đình Phương đem thơ của chị đăng báo Đời Mới, Thẩm Mỹ ở Sài Gòn khiến nhiều người tưởng chị là cô gái tuổi đôi mươi.


Chị Hoàng Hương Trang, cựu nữ sinh Đồng Khánh, tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Huế (khóa 1) năm 1960, Sư phạm Mỹ thuật Sài Gòn năm 1961, có học bổng du học Nhật, cựu giáo sư các trường trung học Ngô Quyền (Biên Hòa), Nguyễn Huệ (Phú Yên), Kiểu Mẫu Thủ Đức… và Trường Đại học Mỹ thuật Gia Định, Sài Gòn. Hội viên Trung tâm Văn bút Việt Nam. Sáng lập và đề xướng công cuộc xây dựng "Rừng Phong Châu, Núi Việt, Bia Hùng", là họa sĩ đầu tiên sáng tạo trường phái phối hợp giữa họa và thơ được mệnh danh "Thủ Bút Họa".


Tác phẩm: Khép đôi mi nhỏ (1956), Linh hồn cỏ biếc (1965), Bến tâm hồn (1966), Thơ - Đông Phương (1967), Hợp tấu (1967), Mười hướng sao (1970), Túy ca (1972). Chị đăng thơ trên nhiều tờ báo như Phổ Thông, Bách Khoa, Văn, Hoa Tình Thương, Tiểu Thuyết Tuần San, Phụ Nữ Mới, Bút Hoa, Gió Nam, Quật Khởi, Văn Nghệ Đông Nam Á… Chị có nhiều bạn bè và học trò, từng gặp gỡ cụ Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, NS Lê Thương, NS Tuấn Khanh và Phạm Duy, nhà thơ Nguyễn Đình Thi… có tên trong Thi nhân Việt Nam thế hệ 1954-1973 (2 tập của Nguyễn Tấn Long, Phan Canh, NXB Sống Mới, Sài Gòn, 1974).


Năm 1972, khi chị in tập thơ “Túy ca”, nhà thơ Vũ Hoàng Chương - tác giả tập “Thơ say” - với tấm lòng liên tài đã làm bài thơ "Cảm đề Túy ca" tặng chị:


“Bài ca Tận túy” đi hoang

Biết đâu Hoàng lại gặp Hoàng chiều nay

Vẽ nên độc dược mà say

Hóa công chưa dễ khéo bày đặt hơn

Gió trăm cơn bụi ngàn cơn

Một cơn say đủ sạch trơn thế tình

Nguyện trường túy bất nguyện tinh

Say ai? Mình chỉ say mình đó thôi

Túy-ca bè đã thả rồi

Túy-hương xưa hãy cùng trôi ngược về.

Sau 1975, chị là hội viên Hội Nhà văn VN, in chung trên 30 tuyển tập thơ văn trong và ngoài nước. Chị sinh hoạt ở CLB Văn nghệ sĩ Gia Định, nơi qui tụ nhiều tên tuổi của Sài Gòn như các nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ Tường Linh, Tô Kiều Ngân, Song Nguyên, Vũ Hối, Sông Trà, Châu Kỳ, Trầm Tử Thiêng, Trúc Phương, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Thanh Sơn, Hàn Châu, Mặc Thế Nhân, Túy Hoa, Túy Phượng, Ngọc Huệ, Mai Khanh, Mai Trâm, Đoàn Yên Linh, Mai Hiên, Trần Thiết Hùng (em trai của Vân Sơn - một trong ba thành viên ban AVT, đã nhảy sông tự tử tại cầu Thị Nghè sau 1975)


Năm 1976, chị được gia đình nhà thơ Vũ Hoàng Chương tin cậy gửi gắm để lưu giữ 12 bài thơ cuối cùng của nhà thơ, sau này đã được in ở hải ngoại. Năm 2006, nhân ngày giỗ lần thứ 30 của nhà thơ Vũ Hoàng Chương, Hoàng Hương Trang cũng làm bài thơ "Chiều say nhớ Hoàng" thương tiếc nhà thơ tài danh này:

“Biết đâu Hoàng lại gặp Hoàng chiều nay”

Mới vừa dăm chén đã say

Trong men chếnh choáng nhớ ngày năm xưa

Bút gươm chém lệch đường thơ

Mực đau giấy ảo, kịch hờ thương Mây

Trả gươm cho gió nghiêng vai

Trả thơ cho mộng, trả ngày cho đêm

Kiều Thu, hề! Đẫm gót sen

Mười hai tháng sáu trả men cho tình

Trời một phương, đất một mình

Cảm thông nhân thế cái tình phù du

Tài hoa hệ lụy sa mù

Chén vui, hề! Chén buồn xưa hiện về

Ơi Hoàng, nửa chén si mê

Ơi Hoàng, nửa chén vụng về trao tay

Rượu đây, hề! Ta cứ say

“Biết đâu Hoàng lại chiều nay gặp Hoàng”.

(Sài Gòn, 10-10-2006)

Chị là con nuôi của kịch tác gia Vi Huyền Đắc (1899-1976). Cụ là Phó chủ tịch Trung tâm Văn bút Việt Nam, người từng được giải thưởng của Viện Hàn Lâm Nice, Pháp năm 1936 với vở Eternels Regrets (Trường hận) và giải thưởng của Tự Lực Văn Đoàn năm 1938 với vở Kim Tiền. Sau năm 1975 cụ trở về Hà Nội được một thời gian thì cụ buồn chán, lặng lẽ tuyệt thực và qua đời vào tháng 8-1976. Đám tang do nhà văn Nguyễn Tuân đứng ra tổ chức và nhà thơ Thế Lữ đọc điếu văn. Trước khi về Bắc, cụ để lại căn nhà cho chị Hoàng Hương Trang. Thời bao cấp khó khăn, chị bán hai phần ba căn nhà, phần còn lại chị ở có một mình. Chị thường bảo “chơi văn, ăn vẽ”, bởi nguồn sống của chị là từ các tranh vẽ bán được trong mấy chục năm ở Sài Gòn. Trong bài thơ Tám mươi dư gửi cho La Thụy, chị nhìn lại đời mình:

Thơ hơn chục cuốn, vạn bài

Văn ngoài dăm quyển, ngàn trang

Họa sáu mươi niên, dư vài trăm bức

Nhạc điểm xuyết mấy khúc ca

Ngâm nga gần bảy chục năm, Tao Đàn nổi tiếng

Hát hò chưa ca sĩ, bạn bè vẫn vỗ tay khen…

Bạn bè khắp năm châu bốn biển, tính đến vạn kẻ thân quen

Học trò trong nước ngoài nước, đếm quá ngàn, tình thân chí thiết

Giao du cuối đất cùng trời, từ Âu sang Á…

(Sài Gòn, 2017)

Xin giới thiệu bài thơ về Huế của chị:

Huế Tình Đầu


Ai xa Huế mà không nhớ Huế

Nhớ chuông chùa Diệu Đế, nhớ Văn Lâu

Nhớ Trường Tiền da diết sáu nhịp cầu

Nhớ Kim Long, nhớ bến đò Thừa Phủ.

Nhớ dốc Nam Giao, nhớ bờ sông Bến Ngự

Nhớ Hàng Bè, Thượng Tứ, nhớ Bao Vinh

Nhớ sông Hương chan chứa thiết tha tình

Nhớ thông reo đỉnh Ngự Bình gió mát.

Nhớ Tịnh Tâm, hồ sen bát ngát

Nhớ đò Cồn, An Cựu, Chợ Dinh

Nhớ con đường Vỹ Dạ bóng cây xanh

Nhớ Gia Hội, Đông Ba, Hàng Me, Đập Đá.

Nhớ Ngự Viên, nhớ Nội Thành, Mang Cá...

Huế của ta ơi, biết nhớ mấy cho vừa!

 

Ai xa Huế mà không thương Huế

Thương mẹ già lặn lội mùa Đông

Thương em thơ đi học mưa dầm

Thương chị, thương anh mùa hè cháy nắng

Thương bữa cơm nghèo, nồi canh mướp đắng

Thương dĩa mắm cà, con cá thệ kho khô...

Huế của ta ơi, thương biết chừng mô!

 

Ai xa Huế mà không mơ về Huế

Dạo bước trên cầu áo trắng tung bay

Vành nón nghiêng nghiêng che mái tóc mây

Ánh mắt trong veo dòng Hương gợn sóng

Đêm trăng hè trời cao lồng lộng

Chiều thu êm tím ngát cả không gian

Tiếng hò trên sông ngơ ngẩn bàng hoàng

Hò ơ hò... chiều chiều trước bến...

Mơ sớm mai chèo đò qua cồn Hến

Trái bắp tươi non, nấu chén chè thơm

Dĩa bánh bèo tôm chấy hồng ươm

Đợi cơm hến, bánh canh, bánh ướt...

Nhớ biết mấy, những món quà quê hương

không gì thay thế được

Dải đất quê nghèo mà mặn nồng yêu thương

Ai đã từng uống nước sông Hương

Ai đã từng hưởng ngọn gió chiều đỉnh Ngự

Ai đã từng bước đi trên những con đường tình tứ

Ai đã thả hồn trên những chiếc võng âm thanh

Ai đã đắm say tình Huế quê mình

Dẫu xa xôi mà không mơ về Huế

Huế tình đầu thơm ngát, Huế yêu ơi!

Hoàng Hương Trang

Sau đây là hai bài thơ cuối cùng của chị:

Cổ Thụ Và Hoa


Có gốc cổ thụ già cằn cỗi

Thở từng hơi nhè nhẹ cuối cùng

Bỗng một hôm nắng sớm tưng bừng

Cơn gió ngọt ngào mang bông hoa tới.

Bông hoa bảy sắc màu tươi rói

Nở chói lòa như ánh cầu vồng

Hoa đến bên cổ thụ khô cằn

Tỏa hương thơm dịu dàng như mật.

Hoa đẹp hơn ngàn bông hoa có thật

Hoa thì thầm ẩn ngữ tình yêu

Hoa hẹn hò chờ đợi kiếp sau

Bao say đắm quên mình là cổ thụ.

Và quên hết thời gian, quá khứ…

Như chơi vơi trong cõi Thiên Đường

Ở bên hoa tươi đẹp lạ thường

Gốc cổ thụ nở bừng cùng hoa thắm.

Cổ thụ giờ đây không còn ảm đạm

Ôm trọn đóa hoa thơm ngát trăm năm

Lời hẹn thề từ cõi xa xăm

Nay đã gặp bông hoa tiền kiếp.

Hoàng Hương Trang (2017)


Nam Mô


Cho tôi niệm tiếng Nam Mô

Nguyện thương, nguyện nhớ

Nguyện cho cuộc tình

Cho tôi niệm tiếng cầu kinh

Đừng hờn, đừng giận

Người mình dấu yêu.

Trái tim tôi, tiếng kinh chiều

Nam Mô ký ức

Đã yêu nghìn đời

Trái tim tôi gửi về nơi

Tiếng Nam Mô

Với ngọt bùi từ bi.

Hoàng Hương Trang (2019)

Nguyễn Phú Yên

Nguồn: nguyenhuehaingoai.blogspot.com