Nhà Văn An Khê
(1.9.1923 - 9.11.1994)
Ngày đó làng văn nghệ Paris rất vui vì được tin nhà văn An Khê một cây bút lão thành trong giới cầm bút trước 75 ở Sài Gòn, mới từ Việt Nam qua Pháp định cư vào cuối năm 1988. Nhà văn An Khê tên thật là Nguyễn Bính Thinh sinh 01.09.1923 tại làng Tân An, tỉnh Sa Đéc; ... nhưng trưởng thành ở Rạch Giá Kiên Giang. Ông là một cây bút lâu năm trong nghề, gia nhập vào làng báo VN từ đầu năm 1950 cho đến ngày 30.04. 1975, với các bút hiệu: Nguyễn Bính Long viết về gián điệp, Trương Thanh Vân viết về trinh thám.
Năm 1952 ông vào quân đội và năm 1954 ông bị thương ở đèo An Khê hỏng cánh tay mặt. Từ đó ông lấy bút hiệu An Khê và gõ máy một tay để viết tiểu thuyết Dã Sử VN. Ông viết tiểu thuyết đăng các báo hàng ngày cho các nhựt báo ở thủ đô và viết rất khỏe. Năm 1966 ông là chủ nhiệm nhụt báo Miền Tây, là tờ báo đầu tiên của vùng, sau biến cố năm Mậu Thân tờ báo đình bản.
Trước năm 1975 ông cộng tác với các tạp chí: Đời Mới, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Tiếng Chuông, Buổi sáng, Công Nhân, Dân Tiến, Vận Hội mới, Tin Sớm, Tia Sáng, Quyết Tiến, Thời Báo, Cấp Tiến, Dân Chúng, Dân Nguyện, Tiến,… Đã viết khoảng 250 quyển tiểu thuyết, và đã in thành sách ở VN được 22 bộ.
Ra hải ngoại vì tuổi tác và sức khỏe kém, nhất là cánh tay bị đau nhức nên ông chỉ viết được ít truyện ngắn cộng tác với một số báo ở hải ngoại như: Làng Văn, Tiểu Thuyết Nguyệt San, Văn Nghệ Tiền Phong, Viên Giác Ái Hữu và Ngày Mai. Năm 1993 Cơ sở Làng Văn (Canada) có giúp ông hoàn thành tác phẩm cuối đời cuốn hồi ký ngắn: Từ Khám Lớn Đến Côn Đảo.
Ở Pháp nhà văn Võ Đức Trung, người chủ trương Thi Tập Một Phần Tư Thế Kỷ Thi Ca Hải Ngoại cùng với chúng tôi: nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh, nhà văn Nguyễn Hữu Nhật, GS Nguyễn Thùy và Đỗ Bình. Anh Võ Đức Trung rất qúy và nể trọng nhà văn An Khê xem như thầy. Anh An Khê khuyên nhà văn Võ Đức Trung hãy giữ chất miền Nam trong văn chương của anh. Nhà văn Võ Đức Trung đã viết nhiều tác phẩm hay, giọng văn miệt vườn của anh đã làn nổi bật tính chất và các nhân vật trong truyện, đó là điểm đặc sắc trong những tác phẩm của Võ Đức Trung.
Nhà văn An Khê biết tôi thân với họa sĩ Hiếu Đệ và nhà báo Đặng Văn Nhâm nên bảo tôi hãy nhờ các anh ấy viết bài yểm trợ phế binh. Thuở ấy làng báo chí tươi mát hòa chung một dòng đấu tranh cho sự tự do quê hương. Mọi sinh hoạt bừng khí thế, hòa nhịp trong tinh thần tình bằng hữu thân thiện. Ngày đó GS Đặng Văn Nhâm vừa ra cuốn Đan Việt Đại Từ Điển được đông đảo đồng hương đón nhận, anh Nhâm chăm lo viết sách và hăng say trong sinh hoạt VN QDĐ. Anh Từ Đan Mạch qua Paris kết nạp chiến hữu là BS Trần Duy Tâm một người du học Pháp từ thập niên 50, làm giám đốc đài radio Sài Gòn ở Paris, phát thanh hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Đài được sự cộng tác của TS Trần Bình Tịnh (chủ tịch Liên Minh Quốc Tế, gồm những trí thức, lãnh tụ nghiệp đoàn chống CS thuộc các nước Đông Âu), cùng một số người khác, trong đó có nhạc sĩ Trần Văn Trạch, ông là người quốc gia yêu nước tranh đấu cho tự do đến hơi thở cuối cùng.
Riêng GS Nguyễn Tánh Đệ vừa ra tù và định cư ở Mỹ. Người đã từng là thày dạy vẽ cho tôi, cũng là bạn tù nằm cạnh nhau, và chung đường phố ở Sài Gòn, và cũng đã tặng cho tôi bức tranh phong cảnh bằng sơn mài trước năm 1975 mà gia đình tôi còn giữ ở VN. Họa sĩ Hiếu Đệ sau khi bắt liên lạc với nhà văn An Khê hai người rất hợp nhau vì là bạn cũ, anh Hiếu Đệ là lớp đàn em của An Khê trong giới báo chí Sài Gòn thời cuối thập niên 50 của thế kỷ trước. Sau này cho đến khi từ giã cõi đời họa sĩ Hiếu Đệ và nhà văn Võ Đức Trung rất tâm đắc, và đã viết chung nhiều tác phẩm. Ở Paris còn có họa sĩ Vương Đình Thư người nhiều năm cộng tác làm việc chung với họa sĩ Hiếu Đệ ở xưởng vẽ. Hiện anh Vương Đình Thư có giữ nhiều bộ tranh sơn mài qúy của họa sĩ Hiếu Đệ.
Ở trong giới nghệ sĩ việc xưng hô với nhau người ngoài nghe hơi nghịch nhĩ, nhưng chúng tôi thì quen. Chúng tôi: LS Phạm Thanh Vân, nhà Báo Nguyễn Cao, và tôi được nhà văn An Khê nhận làm anh em kết nghĩa nên gọi nhà văn An Khê là Anh Hai, nhưng chúng tôi lại là bạn thân của cháu ruột ông, là cựu thiếu tá Lực Lượng Đặc Biệt Nguyễn Bính Quang, mỗi lần chúng tôi gặp nhau ngôn ngữ vẫn tự nhiên.
Có thể nói nhà văn An Khê là người khởi xướng đầu tiên Phong Trào Yểm Trợ Phế Binh VNCH ở hải ngoại, mà chúng tôi là những thành viên rất ít ỏi ban đầu, trong đó có GS Lương Thị Nga, anh chị BS Nguyễn Văn Màu là những tấm lòng vàng đã tận tình giúp đỡ đưa đón chúng tôi.
Thuở ấy viết những bài về phế binh kêu gọi tình người rất nhạy cảm, dễ bị ngộ nhận! Vì sau cuộc chiến có quá nhiều người bị thương tật do chiến tranh, nhất là gởi tiền về sợ bị ăn chận vì sự kiểm soát chặt chẽ của giới cầm quyền địa phương! Cũng may sự trong sáng và lòng chân thật đã giúp chúng tôi thêm nghị lực, giữ được niền tin của đồng bào. Ngày ấy tôi được các chiến hữu trao cho trách nhiệm chủ bút nguyệt san: Vùng Dậy, chủ nhiệm là cựu Trung Tướng Trần Văn Trung, gồm những cây viết ở Paris như nhà báo Phan Ngọc Khuê, GS Nguyễn Vô Kỷ, nhà văn Nguyễn Vân Xuyên, nhà thơ Hoa Tiên Phan Thế Nghiệp, nhà thơ Tôn Thất Phú Sỹ, họa sĩ Nguyễn Đức Tăng, nhà báo Hoàng Thụy Long, nhà báo Trịnh Long Hải, nhà báo Trương Hạnh, Đại tá Trần Công Liễu, Thiếu tá Nguyễn Hồng Sơn, Thiếu tá Nguyễn Quang Hạnh (hiện là chủ tịch Hội Bạn Thương Phế Binh VNCH và là chủ nhiệm tờ báo Nạng Gỗ) v.v...
Ngoài thời gian làm việc để nuôi gia đình, chúng tôi đều bỏ tiền túi, và dành những thì giờ còn lại chăm sóc tờ báo. Sau khi nghe lời kêu gọi của nhà văn An Khê dành một số ngày cuối tuần đi vận động giúp cho anh em phế binh VNCH còn nơi quê nhà. Các anh trong tòa soạn sợ tôi bỏ thì giờ nhiều vào công việc vận động yểm trợ thương phế binh VNCH mà sao lãng trách vụ tờ báo. Nhiều lần từ Paris xuống Marseille thấy anh An Khê cặm cụi gõ máy, ngón tay của anh bị chảy máu chúng tôi thấy xót xa! Hiểu lòng chúng tôi anh nói: “Xá gì chút máu các chú ơi! Anh em phế binh bên nhà còn khổ gấp trăm ngàn lần nữa. Chỉ có chúng ta bị thương tật nên mới thông cảm được những mất mát của anh em."
Vì được chúng kiến tấm lòng của nhà văn An Khê đối với anh em phế binh, và câu châm ngôn “Lá lành đùm lá rách” được chúng tôi thêm vào: “Lá rách đùm lá nát”, chúng tôi thêm vào để tự an ủi mình trên con đường làm việc nghĩa. Những bài viết của chúng tôi đã động lòng người, đồng bào ở Pháp đã hưởng ứng. Các chiến hữu Nguyễn Quang Hạnh, đàn em thân tín của Trung tướng Nguyễn Chánh Thi, anh là một khuôn mặt tích cực trong giới đấu tranh thuở đó. Vì quá thận trọng, sợ bị chụp mũ nên anh hết sức ngăn cản tôi, không muốn tôi bị ngộ nhận. Với tấm lòng thành tôi đã kêu gọi trách nhiệm một người đã từng chỉ huy đơn vị tác chiến ngoài mặt trận. Tôi đã thuyết phục được anh, từ chống đối anh đã chuyển sang nhận trách nhiệm làm hội trưởng Hội Bạn Của Phế Binh VNCH, và tôi đặt tên cho tờ báo, tiếng nói chính thức của hội là Nạng Gỗ, từ đó cho đến hôm nay đã gần ba mươi năm.
Những người tích cực trong hội là các anh Nguyễn Quang Hạnh, Họa sĩ Nguyễn Đức Tăng, GS Nguyễn Vô Kỷ, GS Nguyễn Ngọc Chân, BS Nguyễn Bá Linh, nhạc sĩ Minh Nhật, ca sĩ Kim Nga... v.v… đã không quản ngại thời gian, tiền bạc, làm công việc chia sẻ Tình Thương, tổ chức những bữa tiệc tình thương, lấy tiền giúp cho những người có một thời là lính đã vì quê hương mà bị thương tật. Tiếng thơm đồn xa, vì là việc nghĩa nên đã được sự hưởng ứng nhiệt tình của các đồng hương đến tham dự chia sẻ và giúp đỡ.
Những tấm lòng nhân đã không phân biệt tuổi tác, nam nữ đã cộng tác nhiệt thành như: Nhà thơ nữ Hà Lan Phương, nhà thơ nữ Kim Lan, nhà báo Ngô Thị Ngoan, chị Nguyễn Quang Hạnh, anh Jean Tài và nhiều nhà hảo tâm ẩn danh… Trong đó phải kể BS Phan Minh Hiển và GS Nguyễn Văn Huy những người chưa một lần mặc áo lính, nhưng thương những người đã vì tự do và quê hương mà mất đi phần thân thể. Hai người này đã viết một cuốn sách nói về sự khốn cùng của người phế binh VNCH còn lại trong nước, cuốn sách gây động lòng người làm rơi bao nước mắt.
Có lần chúng tôi: Nhà văn An Khê, LS Phạm Thanh Dân, GS Lương Thị Nga và tôi đi vận động ở các tỉnh miền Nam nước Pháp, trên đường trở về nhà anh An Khê lúc gần sáng, chị Lương Thị Nga vì lái xe đường xa đưa chúng tôi đi nhiều ngày nên quá mỏi mệt, lúc về xúyt nữa xe rơi xuống đèo!
Khi phong trào phế binh ở hải ngoại được mọi người chiếu cố; tôi tự ý rút lui, và cũng rời khỏi tờ nguyệt san Vùng Dậy lui về đọc sách.
Vào thu năm 1994 nhà văn An Khê từ giã cõi đời, trước khi mất anh gởi cho tôi thư từ và những bài viết giá trị. Ở Paris chúng tôi đã làm buổi lễ tưởng niệm nhà văn An Khê, hầu hết các anh chị văn nghệ sĩ, báo chí đều tham dự.
Ít lâu sau GS Lương Thị Nga cũng về miền vĩnh hằng! Thuở đó chỉ có hai nhóm ở hải ngoại tiếp xúc với Cao Ủy, ngoài Ủy Ban Quyền Làm Người của ông Võ Văn Ái thường xuyên ra vào Cao Ủy Liên Hiệp Quốc tranh đấu. Nhóm thứ hai là chúng tôi mà GS Lương Thị Nga là phát ngôn viên, vì thông thạo 5 thứ tiếng nên tiếp xúc nhiều nhất với Cao ủy Liên Hiệp Quốc.
trích Bên Dòng Kỷ Niệm
Đỗ Bình
Paris 17.02 2017