Nhà văn Trùng Dương
(HS Phan Nguyên vẽ)
LTS. Trùng Dương Nguyễn Thị Thái là một “hiện tượng” của sinh hoạt văn học, nghệ thuật và báo chí miền Nam Việt Nam. Ngoài những sáng tác văn học, Trùng Dương tích cực tham gia sinh hoạt điện ảnh, và nhất là báo chí trong giai đoạn hấp hối của Việt Nam Cộng Hòa [VNCH], từ 1970 tới 1974.
Người cựu nữ sinh viên Văn Khoa Sài Gòn nổi danh rất sớm, qua hai sáng tác Vừa Đi Vừa Ngước Nhìn và Mưa Không Ướt Đất. Du học Liên Bang Mỹ trở về, bà đứng tên Chủ Nhiệm báo Sóng Thần mà nhóm chủ biên do nhà văn Chu Tử và nhà báo Uyên Thao trách nhiệm. Sóng Thần–đúng với danh xưng của nó–mang đến những đợt sóng dư luận chấn động miền Nam, như việc khai quật những xác nạn nhân chôn vùi tập thể ở Huế và Quảng Trị trong mùa Xuân 1968, phong trào chống tham nhũng của Linh mục Trần Hữu Thanh, phong trào đòi tự do báo chí với những đợt công kích Luật 007, ngày ký giả đi ăn mày, và nhất là những cuộc tịch thu báo mới in xong, không cho phát hành, nhằm bóp tắt sự sống các cơ quan ngôn luận chống chính quyền. Đó là chưa nói đến việc truy tố chủ nhiệm và các ký giả, nhà văn ra tòa. Nhưng dù bị áp bức, trù dập, Sóng Thần không chịu khuất phục trước thủ đoạn và sự trấn áp của nhà cầm quyền lúc đó. Trùng Dương, Uyên Thao cùng nhóm chủ biên Sóng Thần (nhà văn Chu Tử đã rút lui vì lý do riêng) tiếp tục cuộc tranh đấu cho tự do báo chí. Nếu không có cuộc tổng tấn công Đông Xuân 1975–đưa đến sự sụp đổ của VNCH trong vòng 55 ngày và 55 đêm địa ngục–chẳng hiểu Trùng Dương và Sóng Thần trôi giạt về đâu.
Dù vô cùng khiêm tốn và nhã nhặn sau 35 năm định cư ở Mỹ, nữ sĩ Trùng Dương vẫn cung cấp cho độc giả Hợp Lưu, qua cuộc phỏng vấn với Lê Quỳnh Mai, những thông tin khả tín về diễn đàn ngôn luận tâm huyết do bà và văn hữu chủ trương đầu thập niên 1970. Đặc biệt, những thông tin của Trùng Dương có thể giúp những thế hệ trẻ thấy một sự thực: Văn nghệ sĩ miền Nam cũng có những phần tử can đảm bất chấp mọi hậu quả bi hài đứng lên tranh đấu cho đệ tứ quyền.
Trân trọng giới thiệu nữ sĩ Trùng Dương cùng các văn hữu và độc giả thân quí của Hợp Lưu.
Tạp chí Hợp Lưu
Trùng Dương, tên khai sinh là Nguyễn Thị Thái, sinh năm 1944 tại Sơn Tây, di cư và lớn lên tại Miền Nam từ 1954. Nguyên là chủ nhiệm-chủ bút nhật báo Sóng Thần (Saigòn, 1971-75), và là tác giả của nhiều truyện ngắn, truyện dài, biên khảo, phóng sự, minh hoạ, và một vở kịch ba màn, Các Con Tôi Đã Về (1978). Tị nạn cộng sản tại Hoa Kỳ từ 1975. Trở lại trường học và tốt nghiệp cử nhân và cao học ngành báo chí, công quyền và các vấn đề quốc tế, Đại học Tiểu Bang California, Sacramento. Fulbright Fellow, niên khoá 1990-91 tại Hong Kong, nghiên cứu về các vùng kinh tế đặc biệt (special economic zones) của Trung Cộng trước khi nước này mở tung mọi cửa ngõ đón nhận nền kinh tế thị trường. Từ 1991-93, phóng viên cho tờ The Mountain Democrat, Placerville, Calif.; sau đó về cộng tác với nhật báo The Record, Stockton, Calif., làm copy editor rồi trưởng thư viện tin tức (chief news librarian, archivist & researcher) từ 1993 tới khi về hưu năm 2006.
Các tác phẩm văn chương đã xuất bản trước 1975: Văn xuôi: Vừa Đi Vừa Ngước Nhìn, tập truyện (Khai Trí, 1966); Mưa Không Ướt Đất, tập truyện (Văn, 1967); Cơn Hồng Thủy và Bông Hoa Quỳ (Trình Bầy, 1968); Chung Cư, tập truyện (Tân Văn, 1971); Một Cuộc Tình, tập truyện (Tân Văn, 1972); Lập Đông, tập truyện (Văn, 1972); Thành Trì Cuối Cùng, truyện dài (đăng từng kỳ trên nhật báo Thần Phong, Saigòn, khoảng 1970-71, chưa in thành sách); Những Người Ở Lại, truyện dài (đăng từng kỳ trên nhật báo Sóng Thần, 1973, chưa in thành sách). Văn dịch: The Prophet (dịch Kahlil Gibran, đăng rải rác trong một số tạp chí, 1968-70); Ngàn Cánh Hạc (dịch Kawabata Yasunari, Trình Bầy, 1969); Đường Về Trùng Khánh (dịch Han Suyin, chung với Hồ Hải Nguyễn Vũ Thiện, không nhớ tên nhà xuất bản, khoảng 1970); Người Đàn Bà Trong Cồn Cát (dịch Kobo Abe, An Tiêm, 1971).
Từ sau 1975, viết nhiều thể loại và đăng báo, nhưng chưa xuất bản thành sách.
Lê Quỳnh Mai: Xin chị giới thiệu về nhà báo và nhà văn Trùng Dương Nguyễn Thị Thái.
Trùng Dương: Khi viết báo, tôi tôn trọng dữ kiện, sự chính xác. Khi viết văn, tôi để óc tưởng tượng của tôi thở, sống, "theo chân mây", như tựa một cái truyện ngắn viết trước 1975, thay vì nhốt nó ở đâu đó. Ở cả hai bộ môn, văn chương và báo chí, chân thực là điều căn bản, nhất là sự chân thực trí thức.
LQM: Là chủ nhiệm nhật báo Sóng Thần tại miền Nam Việt Nam trước 1975. Chị có thể cho quí độc giả biết về quá trình thực hiện và hoạt động của cơ quan ngôn luận này không?
TD: Tình cờ tôi vừa viết xong bài điểm sách cuốn Báo chí ở Thành Phố Hố Chí Minh – 100 Câu Hỏi Đáp Về Gia Định – Sài Gòn TP. Hồ Chí Minh, do Trương Ngọc Tường và Nguyễn Ngọc Phan biên soạn và nhà xuất bản Tổng hợp TP-HCM ấn hành năm 2006, về báo chí Miền Nam từ 1865 tới 1995, trong đó có hai trang về tờ Sóng Thần với rất nhiều sai sót. Tôi nhận thấy, vì nhu cầu trong nước và cả ở hải ngoại hiện muốn tìm hiểu về nền văn học Miền Nam 1954-1975, trong đó báo chí là một bộ phận, nên tôi có viết lại về tờ báo Sóng Thần để những ai muốn tham khảo về tờ báo như một phần của báo chí nói riêng và văn học Mỉền Nam nói chung, có tài liệu và không phải đoán mò, cương ẩu. Rất tiếc là tôi không có phương tiện, nhất là sức lực, để suy khảo về cả 20 năm báo chí Miền Nam, mặc dù một dạo rất muốn và đã thu thập được một số tài liệu. Sau đây là phần viết về tờ Sóng Thần rút ra từ bài điểm sách.
Tờ Sóng Thần ra đời vào tháng 10, năm 1971, và bị rút giấy phép vào tháng 2, năm 1975. Microfilm của những số báo Sóng Thần (trừ những số báo bị tịch thu không ra được tới sạp bán) hiện được lưu trữ tại thư viện Kroch Library Asia thuộc Đại học Cornell, Ithaca, N.Y. Bộ phim gồm bẩy cuộn, mang số 5004, gồm 1971: Oct.-Dec., 1972-1974, 1975: Jan.-Feb.
Khởi thủy Sóng Thần là cơ quan ngôn luận của nhóm chống tham nhũng Hà Thúc Nhơn (tên một đại úy y sĩ đã bị sát hại vào năm 1970 trong khi đơn thương độc mã chống tham nhũng trong chính quyền Nha Trang). Nhóm này gồm Bác sĩ Phạm Văn Lương, Giáo sư Nguyễn Liệu, Hà Thế Ruyệt, Phan Nhự Thức, Uyên Thao, Lý Đại Nguyên và một số người khác tôi không nhớ hết tên, và những người vì lý do riêng, không muốn công khai. Sau vì nhu cầu chuyên nghiệp, tờ báo tách ra đứng riêng, mặc dù vẫn theo chủ trương chống tham nhũng trong chính quyền và quân đội. Hồi ấy, tham nhũng ở Miền Nam chỉ bằng một phần nhỏ, so với bây giờ, và cũng chẳng lãnh đạo nào dám ngang nhiên tặng đảo, đất hay cho ngoại bang thuê mỏ, thuê rừng để bỏ túi riêng, như bây giờ. Và cũng không có lãnh đạo nào dám bênh vực tham nhũng, cho rằng tham nhũng ở Việt Nam còn thua xa vài quốc gia khác, như mới đây, ở Việt Nam.
Sóng Thần được hình thành là do đóng góp tiền bạc dưới hình thức mua cổ phần của các cổ đông và độc giả. Tờ báo có trụ sở đặt tại 133 đường Võ Tánh, Saigòn (không phải ở miền Trung như ghi trong cuốn Báo chí TP. Hồ Chí Minh). Tờ báo do tôi dứng tên làm chủ nhiệm, và nhà văn-nhà báo Chu Tử làm chủ biên. Sóng Thần chống tham nhũng ngay từ lúc đầu, chứ không phải mãi tới cuối năm 1974, như ghi trong bài "Xin cho biết về tờ Sóng Thần". Tuy vậy, Sóng Thần chống tham nhũng, không chống chế độ hay chính phủ, như một số báo chí ngoại quốc hồi ấy xếp loại là "anti-government". Ngoài ra là thông tin, bình luận thời cuộc, xã hội, và giải trí (mà việc đăng tải những truyện feuilleton là một).
Báo có anh Nguyễn Đức Nhuận lo trị sự, một người rất tận tụy, không những đối với tờ báo, mà còn với gia đình của anh chị em tòa soạn. Phát hành thì có Sáu Cao (tôi không nhớ trọn tên họ của anh, anh chị em quen gọi anh là Cao vì anh … rất cao và gầy, người miền Nam, năng nổ, bộc trực). Tôi vẫn nhớ hình ảnh anh Sáu ngồi kiểu nước lụt (tức ngồi xổm, theo lối diễn tả của người Bắc), bứt rứt, khốn khổ, buồn so, mỗi khi nghe tin báo bị tịch thu vì một lý do nào đó, và anh không có báo để phát hành.
Phần tòa soạn thì anh Uyên Thao điều hành, với tư cách tổng thư ký, và anh Trương Cam Vĩnh làm phụ tá. Phụ trách về trình bầy và dàn trang, lo in ấn có các hoạ sĩ Đằng Giao, Huy Tường, và Vị Ý. Hồi ấy, chúng tôi đưa báo đi nhà in mướn người ta in, nhưng có riêng một dàn sắp chữ với khoảng một tá thợ, cậu nào cậu nấy lúc nào cũng mình trần vì phòng sắp chữ vốn là một cái gác lửng trần thấp nên rất nóng, và lem luốc vì mực. Phòng sắp chữ nằm phía sau tòa soạn, do xếp typo Tấn, một thanh niên gốc miền Nam, rất tận tụy, trông coi. Giờ nhìn lại tôi không khỏi xấu hổ mà nhìn nhận là trong số thợ sắp chữ đó có một số em chỉ mới trên dưới 10 tuổi, đủ biết đánh vần để có thể sắp chữ, bỏ học đi làm để kiếm sống giúp gia đình. Tôi cũng còn nhớ cảnh Tấn giục bài, "để mấy đứa nhỏ có bài sắp chữ" vào buổi trưa sau khi báo đã in và thợ sắp chữ sắp các bài nằm, có lần đứng bên cạnh bàn làm việc của tôi với cái thước kẻ, hễ thấy viết được khoảng nửa trang, cậu ta kê thước kẻ vào trang giấy xé cái rẹt, đem phần giấy có chữ xuống nhà sắp chữ, mặc tôi ngẩn ngơ như con gà vừa bị cắt đầu. Sau kinh nghiệm đó, tôi thường viết bài ở nhà, nếu bữa nào chậm bài cho Tấn.
Thành phần biên tập, bình luận và nhiếp ảnh khá đông, nòng cốt gồm có Vũ Ánh, Đỗ Ngọc Yến, Lý Đại Nguyên, Đường Thiên Lý, Lê Thiệp, Dương Phục, Nguyễn Tiến Sơn, Lê thị Bích Vân, Anh Điển, Nguyễn Tân Dân, Chóe Nguyễn Hải Chí, Hùng Phong, Nguyễn Tuyển, Thục Viên, Triều Giang, Chu Vi Thủy, Vũ Ngọc Long, và nhiều người khác nữa. Bên cạnh đó là một hệ thống các văn phòng đại diện ở các tỉnh, đặc biệt là Đà Nẵng, Huế và Quảng Trị, với Nguyễn Kinh Châu, Nguyễn Quý, Ngy Thanh, Đoàn Kế Tường và nhiều anh em khác. Cộng tác viên thì càng đông hơn. Thường xuyên lui tới toà soạn tôi nhớ nhất có các anh Trần Phong Vũ và Vũ Đức Vinh, cả hai hồi ấy làm đài phát thanh Sàigòn, với anh Vinh là tổng giám đốc. Về sau này, sau khi nhật báo Đuốc Nhà Nam của ký giả lão thành Trần Tấn Quốc tự ý đóng cửa để phản đối luật báo chí mới 007/1972 đòi mỗi nhật báo phải ký quỹ 20 triệu đồng, Sóng Thần (tồn tại nhờ vay tiền ký quỹ, và số tiền này còn nằm ở Ngân Hàng Quốc Gia khi biến cố 30 tháng 4, 1975 xẩy ra) mời được bỉnh bút Ngọa Long về cho có mầu sắc người Miền Nam vì đa số thành phần biên tập là những người gốc miền Bắc di cư năm 1954. Khác với lời ghi trong cuốn "100 Câu Hỏi Đáp" là cả ba nhà báo kỳ cựu gốc miền Nam Trần Tấn Quốc, Nam Đình và Ngọa Long "cùng sang cộng tác với Sóng Thần", thực tế chỉ có một mình ông Ngọa Long bằng lòng về hợp tác thôi.
Riêng về các nhà văn nhận lời viết feuilleton cho Sóng Thần thì khởi thủy gồm có Nguyên Vũ, Cung Tích Biền, Nguyễn Thuỵ Long, Vũ Ngọc Đĩnh, Hoàng Hải Thuỷ, vv. Sau thêm một số khác nữa trong đó tôi nhớ hơn cả, vì là do chính tôi mời, mà lại mời viết hồi ký chứ không phải tiểu thuyết, để in song song, một phần cũng là nhằm lôi cuốn người đọc, đó là hai nhà văn nữ Túy Hồng và Nguyễn Thị Thụy Vũ. Tôi đã dự tính sau hai nhà văn này thì sẽ mời Nhã Ca và Nguyễn Thị Hoàng viết hồi ký song song như thế, nhưng chưa kịp, không nhớ vì lý do gì. Cả bốn chị đều là những nhà văn có nhiều sách truyện đã xuất bản và được nhiều người biết tới và đọc, khác với tôi, một người viết truyện "xuân thu nhị kỳ", như chủ bút Văn dạo ấy, Trần Phong Giao, đặt cho tôi, có thể vì tôi luôn có những sở thích khác lôi cuốn mình, không chỉ mình văn chương. Những người viết feuilleton cho báo hàng ngày là cộng tác viên, không nằm trong thành phần biên tập.
Ngoài công việc thông tin, nhật báo Sóng Thần còn tham gia vào hoặc tài trợ cho một số những sinh hoạt giáo dục (như hỗ trợ cho chương trình gây quỹ học bổng cho trường Quảng Ngãi Nghĩa Thục dậy học miễn phí cho vài trăm em học sinh trung học nghèo ở Quảng Ngãi, do Nguyễn Liệu và trên 100 giáo sư trung học ở Quảng Ngãi đảm trách); xã hội hoặc nhân đạo (như chương trình xây nhà giúp người nghèo, hoặc gây quỹ và phát động chiến dịch hốt xác và chôn cất gần 2,000 nạn nhân chiến cuộc trên Đại lộ Kinh Hoàng trong trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972); hoặc văn nghệ (như lập nhà xuất bản Nhân Chủ, hỗ trợ gánh hát cải lương Bạch Tuyết-Hùng Cường, thực hiện phim "Yêu", do Đỗ Tiến Đức đạo diễn, dựa vào cuốn tiểu thuyết cùng tên của Chu Tử).
Cái ưu điểm của Sóng Thần, và lý do tờ báo lôi cuốn được nhiều người tham gia, hỗ trợ, đó là, ngoài chủ trương chống tham nhũng làm sạch hậu phương để hỗ trợ tiền tuyến chống Cộng đặng bảo vệ một Miền Nam tự do, còn do chỗ này: đó là tờ báo do nhiều người làm chủ, với tư cách cổ đông góp phần hùn vốn, và niềm tin của họ đặt vào hoài bão của nhóm chủ trương, cũng là ước vọng của họ. Tôi chỉ là người đứng tên trên giấy phép xuất bản và chịu trách nhiệm đối với chính quyền, trong đó có những màn đi hầu tòa mỗi khi báo bị tịch thu. Tôi còn nhớ mỗi lần tôi mặc áo dài đến tòa soạn, thế nào cũng có người hỏi: "Bữa nay bà đi hầu tòa hả?" Vì tôi ít khi mặc ào dài, mà thường mặc âu phục để đi xe đạp cho đỡ vướng. Nói tóm lại, không có các anh chị em khác đã cộng tác với Sóng Thần và sự tin tưởng vào lý tưởng của tờ báo từ các cổ đông và độc giả, chắc chắn đã không có tờ Sóng Thần.
LQM: Khó khăn lớn nhất mà chị đã gặp khi thực hiện tờ Sóng Thần.
TD: Có lẽ là sự kiểm duyệt khá khe khắt, đôi khi vô lý và lố bịch, của chính quyền của ông Nguyễn Văn Thiệu, và đặc biệt là luật báo chí 007/72 ban hành sau biến cố Mùa Hè Đỏ Lửa, đòi mỗi nhật báo phải ký quỹ 20 triệu đồng để được phép tiếp tục xuất bản. Nguyên nhân sâu xa, đã hẳn là do tình trạng chiến tranh do cộng sản Hà Nội chủ trương, với sự thâm nhập hàng ngũ quốc gia của các cán bộ nằm vùng, đặc biệt trong giới cầm bút viết văn, đưa tới thái độ "paranoid" của giới lãnh đạo Miền Nam. Khi một tờ báo bị kiểm duyệt và tịch thu hơi thường xuyên, khách hàng quảng cáo sợ và độc giả cũng dần nản, bỏ mình, rồi cái nọ kéo theo cái kia.
LQM: Mặc dù tạo được tiếng vang lớn, nhưng tuổi thọ của Sóng Thần không được lâu dài như một số nhật báo nổi tiếng của miền Nam Việt Nam trước kia. Chị nghĩ sao về cái tên của nó như điềm báo trước về hiện tượng này?
TD: Chuyện "tên như một điềm báo" chỉ là để nói đùa với nhau cho vui. Tôi không tin tên Sóng Thần tự nó là một điềm báo. Hồi đó, mặc dù Sóng Thần nghe không có vẻ tên báo, nhưng ông Chu Tử rất thích khi tôi cho biết đã chọn tên báo là Sóng Thần. Ngoài Sóng Thần, còn có vài tờ khác cũng bị rút giấy phép cùng lúc, trong đó có tờ Đại Dân Tộc của ông Võ Long Triều.
LQM: Sau nhiều biến cố xảy ra, chị có tìm ra nguyên nhân tại sao nhật báo Sóng Thần bị đóng cửa hay không?
TD: Tôi nghĩ tờ Sóng Thần bị đóng cửa là vì thái độ sợ hãi, không còn tin ở ai của chính quyền của ông Thiệu. Như tôi đã nói ở trên, chính quyền của ông Thiệu khi ở bước đường cùng càng trở nên quẫn trí, phản ứng không còn theo lý trí nữa. Người Mỹ có thành ngữ "shoot yourself in the foot" (tự bắn vào chân mình), nói cách khác là tự đào mồ chôn sống, và đấy là tình trạng của những chế độ ở bước đường cùng và không tin ai nữa, kết quả là hở ra làm cái gì cũng sai, trật, và từ từ tự đào hố chôn mình và chôn theo cả một quốc gia, dân tộc. Ta cũng thấy điều đó hiện đang diễn ra ở Việt Nam.
LQM: Chị có nhận xét và so sánh thế nào giữa hai nền báo chí ở miền Nam Việt Nam trước 1975 và của cộng đồng người Việt hải ngoại sau 1975 (nói riêng tại Hoa Kỳ).
TD: Báo chí ở Miền Nam trước 1975 có kiểm duyệt, mặc dù không bị chỉ đạo, như báo chí dưới chế độ cộng sản độc tài ở Miền Bắc và cả 35 năm qua trên toàn Việt Nam. Báo chí Việt ở hải ngoại thì hoàn toàn tự do, chỉ cần xin giấy phép mở một cơ sở thương mại (business). Ngày nay với kỹ thuật Internet phổ biến, nhiều báo điện tử không cần cả giấy phép thương mại, chỉ cần đăng ký với một trong những cơ sở đăng ký trên Internet. Tuy nhiên, nhiều người làm báo ở hải ngoại, tất nhiên không phải tất cả, hiểu nhầm quyền tự do báo chí, cho rằng mình muốn viết gì, công kích hay chụp mũ ai thì đó là quyền của mình. Điều này không đúng. Càng tự do, trách nhiệm của người cầm bút càng cao, do đấy người cầm bút càng phải luôn học hỏi, tự trau giồi, về kiến thức cũng như khả năng nghề nghiệp. Và quan trọng hơn cả, theo tôi, là vun sới đức tính khiêm tốn, đạo đức nghề nghiệp.
LQM: Chị có so sánh gì về cả hai mặt tốt xấu trong cách làm báo của người bản xứ tại Hoa Kỳ và của người Việt tại hải ngoại.Và ý kiến về sự xuất hiện mạnh mẽ của báo điện tử hiện nay?
TD: Báo Việt ở hải ngoại, đặc biệt tại Nam Cali, nhiều quá, vì ai cũng muốn làm chủ báo, mà số người viết thì có hạn, độc giả có hạn, cũng vậy là khách hàng quảng cáo. Lượng thì nhiều mà phẩm không có bao nhiêu. Về phát thanh cũng vậy. Đã vậy, báo chí Việt ngữ, vì tính chất chính trị đặc biệt của cộng đồng Việt tị nạn, ít nhiều, dù không muốn, cũng bị lôi cuốn vào vòng chính trị, khó duy trì được tính khách quan, chuyên nghiệp. Chưa kể ảnh hưởng của khách hàng quảng cáo tới sự độc lập của tờ báo nữa. Báo chí Mỹ không bị chi phối bởi đặc tính chính trị này, mặc dù cũng không tránh được sự chi phối của quảng cáo. Báo chí Mỹ cũng không xuất bản ồ ạt như vậy. Tại một thành phố như Stockton, nơi tôi đã sống và làm việc 12 năm, chẳng hạn, với dân số khoảng 250 ngàn cho thành phố và khoảng nửa triệu cho toàn quận, chỉ có một tờ báo hàng ngày, tờ The Record, với số phát hành khoảng 70 ngàn số. Vậy mà từ nhiều năm trở lại đây tờ báo cũng đang khốn đốn vì sự phổ biến của Internet vì kỹ thuật này đang lấy đi khách hàng quảng cáo, nguồn thu chính của tờ báo. Và đấy là tình trạng chung của báo in tại Mỹ: nguồn thu quảng cáo đang bị thu hẹp lại, trong khi số độc giả mua báo cũng giảm đi.
Kỹ thuật Internet chỉ mới được chính phủ Hoa Kỳ bàn giao cho tư nhân xử dụng vào năm 1995, bốn năm sau khi kết thúc cuộc Chiến Tranh Lạnh. Tuy thế, Internet đã biến đổi sâu xa đời sống của chúng ta ở mọi lãnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật và cả những liên hệ và đời sống cá nhân. Cũng chưa có kỹ thuật nào từ cổ chí kim mà lại có khả năng thu nhỏ quả địa cầu, thông tin chớp nhoáng, kể cả "tin" bậy, và dân chủ hoá và trang bị sức mạnh (empower) cho người xử dụng, như kỹ thuật Internet, mà World Wide Web, gọi tắt là Web, là một bộ phận. Do đấy chúng ta không nên lấy làm lạ khi báo điện tử của người Việt trong và ngoài nước bỗng tràn lan, bên cạnh những ấn bản điện tử (online) của những báo giấy, đấy là chưa kể các trang Web của các đoàn thể, hội, nhóm và cá nhân. Không cần chi phí nhiều để mở những trang Web đó, chưa kể nếu chịu khó thì có thể tự làm lấy trang Web của mình với sự hỗ trợ của một vài chương trình computer, rồi thuê post lên Web, tốn vài chục Mỹ kim/tháng. Vấn đề là có người viết và viết như thế nào, có đáng cho chúng ta theo dõi đọc và tin được không. Không ai ở hải ngoại này, kể cả chính quyền, có thể "đóng cửa" những Web sites này, trừ phi họ vi phạm điều lệ của hãng Internet mà họ thuê post và có người khiếu nại. Do đấy, người đọc cần đủ hiểu biết và thông minh để phân biệt thực hư, giữa sự thực và dối trá, đừng bạ cái gì cũng tin, rồi chuyển đi tứ tán, qua phương tiện e-mail, một cách vô trách nhiệm.
LQM: Là nhà báo và cũng là nhà văn, chị thích lãnh vực nào hơn. Tại sao?
TD: Không có lãnh vực nào tôi thích hơn lãnh vực nào, mà cả hai bổ sung cho nhau. Càng lớn tuổi, với kinh nghiệm, mình càng thực tiễn hơn, không còn mơ mộng, đam mê như lúc còn trẻ, do đấy óc tưởng tượng cũng mòn mỏi đi. Vì nhu cầu công việc và thói quen nghề nghiệp, tôi nghiêng về báo chí nhiều. Tóm lại, tôi đọc báo, tạp chí, sách non-fiction, xem phim tài liệu nhiều hơn là đọc truyện và xem phim truyện, trừ những tác phẩm thật hay. Viết cũng vậy.
LQM: Ý kiến của chị thế nào về văn học hải ngoại. Và sự khác biệt giữa hai thời điểm trước 1975 và sau 1975 dưới mắt nhìn của chị?
TD: Không biết có phải cái gì đã trở thành kỷ niệm rồi thì bao giờ, ít nhiều, nó cũng đẹp hơn? Tôi vừa đọc lại cuốn Văn Học Miền Nam Tổng Quan 1954-1975 (ấn bản lần thứ ba, nhà xuất bản Văn Nghệ, 2000) do nhà văn Võ Phiến soạn từ giữa thập niên 1980, thì thấy là cũng không hẳn thế, mà văn học Miền Nam trước 1975 quả có phong phú thật, và vì bây giờ nó đã trở thành kỷ niệm, nên lại càng đẹp hơn. Và, một cách thầm kín, tôi không khỏi hãnh diện đã được đóng góp một phần nhỏ trong đó.
Cái khác biệt lớn lao là trước 1975 khi còn ở trong nước, chúng ta có người đọc, có môi trường sinh hoạt gần gũi trao đổi và nâng đỡ, kể cả phê bình, lẫn nhau, từ đó nẩy ra hứng thú; có các nhà xuất bản sống thuần túy bằng nghề in sách, có hệ thống phát hành chuyên môn, và tiệm sách ở khắp nơi, cả trên các hè phố, chưa kể hệ thống các tiệm cho thuê sách, và người cầm bút có thể sống bằng ngòi bút của mình, hoặc ít ra viết có tiền nhuận bút, dù nhuận bút, cho một truyện ngắn, chẳng hạn, chỉ đủ để mời thân hữu đi ăn một bữa ở nhà hàng.
Sau 1975, ở hải ngoại, chúng ta quá bận rộn vì phải phấn đấu với tâm trạng xa quê hương, nhớ nhà, bà con, sinh hoạt chòm xóm, và bận rộn thích nghi với một môi trường mới hoàn toàn xa lạ, chưa kể nhiều gia đình sống ở đây mà còn phải cưu mang cả người thân, bà con lầm than vất vả ở bên nhà. Thì giờ đâu ra mà đọc, mặc dù ở những năm tháng đầu, người ta thèm đọc, mà là đọc những tin tức về Việt Nam, hoặc những sách vở trước 1975 vốn là một phần trong bộ nhớ nhung chung về một dĩ vãng không còn nữa -- ở đây xin ghi nhận công lao đóng góp của nền báo chí hải ngoại, đặc biệt ở giai đọan đầu. Người đọc đã thế, người cầm bút di tản cũng đâu thua gì, có khi còn tệ hơn vì bao nhiêu điều muốn ghi lại song biến cố 30 tháng 4, 1975 đã khiến một số người tê điếng, có trường hợp bị liệt cảm xúc (tôi bị rơi vào tình trạng này hết mấy năm đầu tị nạn).
Tôi nhớ có một lần, vào giữa thập niên 1990, gặp một ông bác sĩ Việt khá thành công ở Stockton, Bắc Cali. Chắc muốn chứng tỏ là mình vẫn theo dõi tình trạng sách báo Việt hải ngoại, nên vừa hỏi, vừa như phán, với tôi như thế này: “Tại sao một biến cố đau thương lớn lao như biến cố 1975 mà chúng ta vẫn chưa có một tác phẩm lớn nào?” Tôi cũng bộc trực trả lời, “Người cầm bút tị nạn cũng phải đi kiếm sống và lo cho gia đình, như bao người khác, sao đòi hỏi họ làm cái việc tẩy trời đó?” Song tôi cũng kịp ngưng lại, để không phải nói tiếp, là những người thành công về tài chính như ông bác sĩ thì nên nhận bảo trợ một vài nhà văn tị nạn để họ ngồi viết tác phẩm lớn như ông đòi hỏi.
Đấy là thời kỳ thập niên đầu sau 1975. Thế hệ của những người ở tuổi chúng tôi, từ 30 tới 50 khi di tản, cầm bút hay không, là thế hệ phải ổn định đời sống vật chất cho gia đình, do nhu cầu cấp bách đặt ra của một cuộc đổi đời quá lớn. Cũng như thế hệ cha anh của chúng tôi trong cuộc di cư vĩ đại vào Nam năm 1954. Chỉ khác một điều, trên cái nền móng do cha anh chúng tôi xây sau cuộc đổi đời 1954 là toà nhà văn học Miền Nam do chúng tôi xây. Nó đa dạng, rực rỡ, cũng là nhờ ba yếu tố, như chị Thụy Khuê đã nêu lên, khá chính xác, trong bài viết về văn học Miền Nam của chị (http://thuykhue.free.fr/) . Ba yếu tố đó là 1) nền móng quốc ngữ từ cuối thế kỷ XIX, cộng thêm tiếng Nam như một kho tàng ngôn ngữ mới, 2) sự bảo tồn văn học tiền chiến và bảo lưu Nhân Văn Giai Phẩm trong thời kỳ chia đôi đất nước khiến Miền Nam không bị cắt đứt với quá khứ và hiện tại văn học của cả nước (khác với ở Miền Bắc chúng đã bị bóp chết), và 3) sự nối kết với và thu nhận các trào lưu văn học và tư tưởng nước ngoài vô cùng phong phú, đặc biệt trong hai thập niên 1950 và 1960.
Trên cái nền móng do thế hệ chúng tôi ổn định sau cuộc đổi đời sau 1975 sẽ là gì? Chúng ta cũng đã tạo nên được một nền văn học hải ngoại, dù khó có thể so sánh với nền văn học Miền Nam 1954-1975 vì chúng ta đã bị bật rễ thê thảm, nhưng không vì thế mà nó không phát triển và đa dạng, nhờ ảnh hưởng văn hoá và môi trường sinh sống tại mỗi quốc gia định cư. Một số người viết từ trước 1975 vẫn can đảm tiếp tục mặc dù những khó khăn trong đời sống mới, nguồn tài liệu rải rác, xa xôi, tình trạng sống rải rác khắp nơi khiến chúng ta thiếu một hệ thống hỗ trợ (support system) lẫn nhau.
Từ hơn một thập niên nay, sự hiện diện của kỹ thuật computer và Internet đã thay đổi tình trạng này, và đấy là điều đáng mừng Chúng ta cũng đã có thêm nhiều cây bút mới ghi nhận những mảnh đời, sinh hoạt của người Việt ở khắp nơi. Bên cạnh đó, nhiều người thuộc thế hệ con cháu của chúng ta cũng theo đuổi công việc sáng tác, dù là bằng Anh hay Pháp ngữ mà theo tôi, điều đó không quan trọng, vì ngôn ngữ chẳng qua chỉ là một phương tiện, cũng như văn học nghệ thuật chẳng qua cũng chỉ là phương tiện. Và chúng ta lúc nào muốn và cần, cũng có thể dịch những tác phẩm của họ sang tiếng Việt, như chúng ta đã từng làm việc dịch từ chữ Hán, chữ Nôm các tác phẩm của cha ông chúng ta khi ta chưa có chữ viết mà phải mượn của Tầu hoặc biến chế thành chữ Nôm khó phổ thông hóa, như về sau này với hệ thống chữ quốc ngữ. Cái quan trọng là nội dung, cách diễn đạt và tính nhân bản phản ảnh qua tác phẩm. Tóm lại, văn học hải ngoại 1975-2010 chắc chắn không thể so sánh với văn học Miền Nam 1954-1975, đặc biệt về lượng, nhưng nó đã và đang hiện diện.
LQM: Theo tạp chí Văn (số phát hành ngày 13/7/1973), năm nhà văn nữ nổi tiếng nhất của văn chương tiểu thuyết hiện đại là Túy Hồng, Trùng Dương, Nhã Ca, Nguyễn thị Hoàng, Nguyễn thị Thụy Vũ. Cảm giác của chị thế nào khi được chọn lọc như thế?
TD: Cảm giác lúc bấy giờ (1973) thì không còn nhớ chính xác, vì chúng tôi cũng ngạc nhiên khi có người gần đây e-mail cho trang Web có phóng ảnh trích từ số báo Văn này, bởi tôi đã hoàn toàn quên số báo đó. Giờ nhìn lại thì cũng thấy vui vui vì đã được góp mặt, góp phần. Xin mở ngoặc đơn: Bạn đọc nào muốn tìm hiểu thêm về sự đóng góp của năm chúng tôi và các nhà văn nữ khác của nền văn học Miền Nam 1954-1975, xin đọc một bài biên khảo khá công phu của nữ học giả Công-Huyền Tôn-Nữ Nha-Trang, “Women Writers of South Vietnam, 1954-75” (The Vietnam Forum, No. 9, 1987). Bài này hiện đang được ông Đoàn Thanh Liêm dịch ra chữ Việt với sự thỏa thuận của tác giả. Theo chỗ tôi được biết thì nhà văn Phạm Phú Minh đã được phép tác giả cho in lại trên tờ tạp chí điện tử Diễn Đàn Thế Kỷ mới ra đời, do anh làm chủ bút, hiện có mặt tại http://www.diendantheky.net/.
LQM: Xin chị giới thiệu về Bầy Kên Kên, tác phẩm đã đưa tên tuổi Trùng Dương thành danh với độc giả. Và chị có hài lòng với những đứa con tinh thần sau đó không. Ví dụ như “Bí mật rừng già"?
TD: Bầy Kên Kên là một tác phẩm chưa hoàn tất, không có gì đáng để nói, và do đấy cũng không phải là tác phẩm đưa tới cái gọi là “thành danh” của Trùng Dương. Thực tình tôi cũng chẳng biết có tác phẩm nào đã khiến tôi “thành danh”. Hình như tôi được người ta nhớ đến nhiều là do hoạt động với tờ Sóng Thần.
Trở lại những tác phẩm văn chương, đọc lại những truyện cũ (tôi may mắn có đem theo được, trong chuyến di tản 1975, vài tập truyện đã in thành sách, tôi không cho in lại vì đã có ai đó nhanh tay... làm hộ việc này, ngoài hiểu biết của tôi, song cũng không quan trọng), tôi chỉ có một sự hài lòng rõ rệt nhất, đó là chúng đã giúp ghi lại những cảm nghĩ, nhận xét về những mảnh đời mà nếu không, mình đã không còn nhớ. Ngoài ra, chúng cũng giúp tôi đo lường được mức độ trưởng thành trong việc cầm bút của mình. Hồi xưa, trước 1975, tôi viết do ngẫu hứng nhiều, không có căn bản về viết văn hay báo, do đấy có những bài rất bột phát, hồn nhiên, thấy cũng hay hay, đọc lại chính mình cũng ngạc nhiên, ngược lại, có nhiều bài dở, vớ vẩn, chẳng ra làm sao, xem lại, thấy buồn cười,
Riêng truyện “Bí mật của rừng già”, cũng lạ là người phỏng vấn đề cập tới, vì ít ai đã đọc, hay đọc mà còn nhớ. Độc giả và các bạn văn nghệ của tôi thường chỉ nhắc tới hai truyện mà họ cho là tiêu biểu, hoặc do còn rơi rớt lại... cái tựa truyện trong trí nhớ của họ, và cũng được chọn làm tựa của hai tập truyện, Vừa đi vừa ngước nhìn (Khai Trí, 1966) và Mưa không ướt đất (Văn, 1967). Truyện “Bí mật của rừng già”, viết vào cuối thập niên 1960, được in lại trong tập truyện Chung Cư (Tân Văn, 1971), có một nửa (phần người nữ tu bị hiếp) dựa vào chuyện do một người bạn kể lại, và nửa còn lại (người hiếp người nữ tu bị người anh của bà ta “xử”, sau khi chuốc rượu cho say đến bất tỉnh) là do trí tưởng tượng của tác giả. Truyện có bối cảnh là một khu định cư của dân Bắc di cư năm 1954 tại một vùng cao nguyên đất đỏ, lấy từ ký ức về những chuyến đi thăm cha tôi và mấy người anh làm cây và trú ngụ ở Túc Trưng, Nam Việt Nam, vào cuối thập niên 1950. Viết truyện ngắn này, hình như tôi chỉ muốn kể lại một câu chuyện, trong tinh thần kể chuyện hơi cổ điển: có đầu có đuôi, có quả có báo. Có thể khi nghe người bạn kể chuyện, tôi thấy bất nhẫn, một cách vô thức, nên tưởng tượng thêm thắt cho thành chuyện quả-báo. Độc giả có toàn quyền rút từ đó ra một ý nghĩa nào đó tùy theo cảm quan của họ.
LQM: Nhận xét của chị về dòng văn chương nữ trong cộng đồng người Việt hải ngoại thế nào? Nói chung, cảm giác của chị ra sao khi biết có không ít những nhà văn nữ, qua tác phẩm của họ, đã tạo được thành công vượt hẳn nam giới?
TD: Tôi chỉ đọc vài người, không đọc hết, thành ra không thể bàn về cái gọi là dòng văn chương nữ hải ngoại, vì sẽ rất thiếu sót, lệch lạc. Song theo tôi, không có dòng văn chương nam hay nữ hay phái ở giữa. Văn chương nào thì cái chính là có rung cảm và làm phong phú (enrich) được người đọc không, và nếu nói lên được cái gì thì càng tốt.
LQM: Người ta nói nhà văn (đích thực) là những người cô đơn nhất theo bản năng tự nhiên. Chính vì thế mà họ mới có khả năng chìm đắm trong tư duy sáng tạo, và sống với những nhân vật họ tạo ra. Theo chị thì câu này có đúng không? Và chị có cảm thấy cô đơn như thế không?
TD: Hành trình sáng tạo nào cũng là một hành trình cô đơn, chẳng cứ viết văn. Như người ta ngồi đồng, đồng không lên thì không nhập đồng được. Nhập rồi thì chẳng còn biết gì về đời sống xung quanh. Nói vậy, tôi chưa thấy mình đạt tới giai đoạn được "đồng nhập” đó. Có lẽ vì thế mà chưa có tác phẩm... lớn?
LQM: Người ta cũng nói rằng sự thành công lớn chính là niềm cô đơn bất tận của nghệ sĩ. Chị có cho đây là cái giá phải trả của nghệ sĩ nói chung không?
TD: Tôi chưa liên kết được ba cụm từ “sự thành công lớn”, "niềm cô đơn bất tận”, và “cái giá phải trả”. Cũng có thể vì tôi chưa có kinh nghiệm về một “sự thành công lớn” nên chưa có được cái "niềm cô đơn bất tận” đã phải trả bằng “cái giá phải trả”, chăng?
LQM: Chị nghĩ sao về ảnh hưởng lớn của phụ nữ trong lãnh vực chính trị hiện nay? Và ý kiến về nạn buôn người tại Á châu, đặc biệt là tại Việt Nam.
TD: Tôi nghĩ ảnh hưởng của phụ nữ trong lãnh vực chính trị là một điều khích lệ, đáng mừng, đã tới lúc, nếu không nói là hơi trễ là đàng khác.
Về tệ nạn buôn người ở Á châu và đặc biệt tại Việt Nam, đây là một vấn nạn xã hội lớn lao và nhức nhối. Ở đây tôi xin phép chỉ thu gọn vào vấn đề buôn bán trẻ em và các thiếu nữ. Tôi nhớ có đọc một bài báo, về một phóng viên Mỹ bỏ tiền ra chuộc một cô bé trong một ổ điếm ở Căm Bốt và đem em trả về cho gia đình em ở một làng quê, để một thời gian sau anh ta lại thấy em ở trong một ổ điếm khác. Tức là muốn giải quyết tệ nạn này, phải giải quyết tận gốc, bằng sự giáo dục và tạo cơ hội kinh tế cho các em gái.
Chương trình Dateline của NBC cách đây 5 năm có đi một phim tài liệu về tệ nạn này, nhan đề là “Children for Sale”, hiện còn post tại http://www.msnbc.msn.com/id/4038249/; và cách đây hại năm, chương trình NOW của hệ thống truyền hình PBS cũng có trình chiếu một phim tài liệu tựa là “Daughters for Sale”. Trong khi Dateline cung cấp một cái nhìn tổng quát về tệ nạn buôn bán trẻ em gái, thì NOW thu hẹp vào công tác của tổ chức Nepalese Youth Opportunity Foundation (http://www.nyof.org/), là một nhóm thiện nguyện Tây phương phối hợp với dân địa phương, đã giúp vốn, bằng một con heo con, hay một con dê, trị giá bằng số tiền một gia đình nghèo nhận được nếu đem con gái đi ở đợ, mà kết quả có thể là bán con luôn.
Ngoài việc giữ các em gái ở lại với gia đình, tổ chức này còn giúp cho các em có phương tiện đi học để có được việc làm tốt, đồng thời giữ được phẩm giá con người, Hàng ngàn em gái đã được tổ chức NYOF giúp đỡ để vừa được ở nhà với và giúp gia đình, vừa được đi học để chuẩn bị cho một tương lai tốt đẹp hơn. Song đây cũng chỉ là muối bỏ bể, vì thành kiến xã hội, tập tục văn hóa và đặc biệt, tình trạng kinh tế lạc hậu.
Gần đây tôi cũng có dịp xem một phim tài liệu khác, cũng trên đài PBS, về một trường ở Ấn Độ, gọi là Barefoot College (http://www. barefootcollege.org/), giúp huấn luyện các phụ nữ ở vùng quê lắp ráp solar panel và thiết lập hệ thống thu nguồn ánh sáng của mặt trời để cung cấp điện lực cho thôn xóm họ, tôi rất thích thú. Đặc biệt trường này chỉ nhận huấn luyện các phụ nữ thôn quê, không nhận nam sinh. Họ lý luận là huấn luyện cho các bà thì các bà làm việc ra tiền thường lại đem thu hoạch về để bồi bổ cho gia đình con cái, chứ không tiêu dùng cho riêng mình.
Sẽ rất thiếu sót nếu không đề cập tới những nỗ lực của các bạn trẻ Việt hải ngoại hiện đang làm các công việc thiện nguyện nhằm giáo dục các em gái con nhà nghèo ở Việt Nam tránh bị rơi vào cạm bẫy của nạn buôn người và giúp các em tiếp tục việc học. Điển hình là các sinh hoạt của Pacific Links Foundation (http://pacificlinks.org/) mà chương trình Newshour thuộc hệ thống truyền hình PBS đã giới thiệu nhân kỷ niệm 35 năm ngày 30 tháng 4, 1975 vừa qua. Hoặc VietACT (http://www.vietact.org/), một tổ chức chống nạn buôn người của một số bạn trẻ hoạt động đã nhiều năm nay, bên cạnh nhiều nỗ lực cá nhân khác, tất cả rất cần chúng ta hỗ trợ, đóng góp nếu có khả năng.
Tóm lại, muốn giải quyết tệ nạn buôn người đối với phụ nữ, phải bắt đầu đi từ căn nguyên, tức là tạo cơ hội kinh tế cho những người có thể trở thành nạn nhân. Các tổ chức thiện nguyện quốc tế không thể một mình làm việc này, mà phải có sự tiếp tay của người địa phương, và của chính quyền, nếu họ thực tâm lo cho dân.
LQM: Nhà văn Võ Phiến, về cuối đời đã viết trong tản mạn Thẩn Thờ như sau: “Chuyện sáng tác có gì đáng nói... Tôi e những món thơ thần và tùy bút nọ kia đều phải xếp về phía đồ chơi. Những cái mình miệt mài bấy lâu, khi đầu bạc nhìn lại là đồ chơi cả...” (Cuối Cùng, Võ Phiến, Thế Kỷ 21 xb năm 2010). Xin chị cho ý kiến về câu tuyệt vời trên?!
TD: “Chơi” mà đồ sộ như thư mục sách đã xuất bản của ông Vô Phiến, thì cũng đáng “chơi” lắm, chứ sao lại... “thẫn thờ”? Và có lẽ vì ông ấy “chơi”, chứ mà đăm chiêu, nghiêm chỉnh, lúc nào cũng như vác một sứ mệnh văn nghệ vĩ đại, e người đọc bị nhát, đọc sợ không vô. Có lẽ đó là cái khiến nhiều người thích đọc và cảm được Võ Phiến, vì ông ấy chỉ kề cà kể chuyện, bình dân, mộc mạc, kể cả khi đề cập tới những chuyện không nhỏ tí nào, như... 20 năm văn học Miền Nam 1954-1975.
LQM: Trở lại với độc giả qua những ký sự du lịch. Điều này chứng minh chị đã đi qua rất nhiều địa danh lịch sử trên thế giới. Chị có tìm ra được sự liên hệ chung của con người là gì không? Có phải đó chính là tình yêu?
TD: Thực ra tôi đi không nhiều, và cũng rất chọn lọc cái nơi mình đi thăm, không nhất thiết phải là một địa danh lịch sử. Như đã nói ở trên, tôi thích nhiều thứ, là một loại “chuyên viên về các vấn đề tổng quát” (chữ của nhà thơ Đỗ Quý Toàn, trước 1975, một lần nói về nghề viết báo của Đạo Cấy, bút hiệu viết phiếm của anh ấy). Và tôi cũng rất thích loại phóng sự bằng hình (photoessay) hoặc chuyện bằng hình (photostory) nữa, làm để... chơi, để gửi đi chia sẻ với người thân, bằng hữu hoặc vài tờ báo thân hữu. Tôi thích, và vẫn cố, viết ngắn và cô đọng, và để cho hình ảnh kể chuyện, một phần vì thời buổi này không có mấy ai có thì giờ đọc bài dài và nhớ được dù chỉ một phần nhỏ.
Trở lại chuyện du lịch. Tôi đi thăm Taos, New Mexico, chẳng hạn, vì dạo đã lâu nghe thằng con đi thăm Taos về, nói ở California đi ra bờ sông thấy thiên hạ thả cần câu cá đầy dọc theo bờ sông, còn đến Taos thì chỉ thấy họa sĩ dựng giá vẽ đầy dọc bờ sông. Có thể là thằng con diễn tả hơi quá, có tính khôi hài. Dù vậy, khi tôi đi thăm Taos là vào tháng 11, trời đã lạnh, lại ở cao độ, đã lất phất tuyết rơi, nên chẳng thấy hoạ sĩ nào dại dột ra bờ sông dựng giá vẽ hết, nhưng thành phố thì thấy đầy phòng tranh, có phòng tranh có tên gọi là “The Starving Artists”, có cả một rạp chiếu bóng tên là Storyteller – tôi rất mê văn hóa nghệ thuật, đặc biệt kiến trúc, của vùng Tây Nam Hoa Kỳ vốn xưa thuộc về các bộ lạc Da Đỏ. Hoặc tôi đi New Orleans, ba năm sau trận bão kinh hoàng Katrina, vì mối quan tâm tới môi sinh và vì muốn biết thành phố này đã phục hồi ra sao - cũng nhờ chuyến đi đó mà gần đây tôi theo dõi vụ tràn dầu trong Vịnh Mexico với một kiến thức về môi sinh của vùng bờ biển Louisiana, chỉ cách New Orleans có vài ba chục miles, và với một quan tâm đặc biệt. Hoặc tôi đi thăm các bãi đổ bộ của quân Đồng Minh ở Normandy, Pháp, nhân kỷ niệm 65 năm D-Day năm ngoái, và đã đi thăm các nghĩa trang tử sĩ Mỹ và cả Đức, để được nhìn thấy tận mắt sự tôn trọng các tử sĩ không phân biệt bện thắng bên thua của một nhân loại văn minh, không như người cộng sản ở Việt Nam đối với các phần mộ của các tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Hoặc tôi đi Nam Cực vì ... ít người có dịp này -- một kinh nghiệm tuyệt vời vì môi trường vô cùng tinh khiết nơi đây, mặc dù lạnh ơi là lạnh dù đang giữa mùa hè ở nam bán cầu (mà tôi lại bị mất cắp túi hành lý đựng quần áo và thuốc men khi chờ xe bus ở Buenos Aires, Argentina trước khi lên tầu đi cruise -- một kỷ niệm đáng nhớ!). Hay tôi đi Ý vì trên 30 năm trước, vào những ngày cuối cùng ở Sàigon, có cơ hội di tản song còn đang phân vân nên đi hay ở, tôi đi xem một phim có bối cảnh ở Rome, đã tự nhủ nếu không rời khỏi Việt Nam thì... bao giờ mới được thấy Ý và những công trình kiến trúc, điêu khắc và nghệ thuật của xứ này. Vậy mà mãi tới năm vừa rồi tôi mới có dịp đi Ý, và đã hẳn là phải viếng cả Pompeii nữa, để trí tưởng tượng của mình có dịp bay ngược thời gian về thế kỷ thứ nhất khi Pompeii và thành phố Herculaneum kế bên bị hỏa diệm sơn Vesuvius phun lửa chôn vùi dưới 21 mét nham thạch vào năm 79 thuộc thế kỷ thứ nhất, cũng là thế kỷ thấy cuộc khởi nghĩa thành công và xưng vương ngắn ngủi của Hai Bà Trưng (40-43). Cũng vì thích những tàn tích cổ đó, mà tôi đi thăm Mesa Verde National Park ở Colorado, nơi có những làng xóm các bộ lạc Da Đỏ xây trong hốc núi (cliff dwellings) từ trước thế kỷ thứ 13, vừa bí ẩn, vừa đẹp, như những tác phẩm điêu khắc nghệ thuật. Tôi vẫn mong có dịp đi thăm các di tích của vương quốc Chàm -- tôi chưa| trở về lại Việt Nam lần nào.
Qua những chuyến đi ấy, tôi càng thấy thêm yêu thương trái đất. Trái đất – hành tinh duy nhất còn sự sống - đẹp như thế, môi sinh đa dạng như thế, với các nền văn minh nối tiếp nhau phong phú rực rỡ khi thịnh, và trầm mặc, bí ẩn lúc suy, như thế, mình phải làm những gì có thể làm để bảo tồn, trân trọng nó, đừng mặc sức khai thác, tàn phá, làm ô nhiễm nó thêm, và để cho con cháu mình cũng được dịp thưởng ngoạn những cái đẹp ấy.
LQM: Xin nhà văn Trùng Dương có vài lời với quí độc giả,
TD: Vài người gần đây nói với tôi họ thích đọc tôi vì thấy được mở mang kiến thức, tôi thấy vui vui vì mình đã làm được một việc có ích khi kể lại những chuyến đi chơi của mình, hoặc khi viết về một đề tài nào đó, hoặc về cuốn sách hay một phim hay đã đọc, xem và đã rung động mình. Xin chân thành cảm tạ lòng ưu ái của bạn đọc, hiện tại cũng như trong quá khứ.
LQM: Cám ơn chị đã nhận lời mời phỏng vấn của Lê Quỳnh Mai.
TD: Xin cảm ơn người phỏng vấn đã dành cho tôi cơ hội “gói ghém” cuộc đời cầm bút của mình.
LÊ QUỲNH MAI thực hiện
29 tháng 6 năm 2010
PHỤ BẢN:
Hình Nhật Báo Sóng Thần bắt đầu xuất bản vào tháng 10, 1971 và bị rút giấy phép vào tháng 2, 1975, tại Saigòn. Hiện microfilm của những số báo ST được lưu trữ tại thư viện của Đại Học Cornell, ghi số Watson Film 5004.
Hình trên, góc trái, là poster quảng cáo ST sắp trình làng, do nhóm Hà Thúc Nhơn và nhà văn Chu Tử chủ biên. Poster này do hoạ sĩ Đằng Giao trình bầy, dựa theo ý của ký giả Uyên Thao và Đường Thiên Lý.
Hình trên bên mặt, hình trang nhất của một số báo bị tịch thu đề ngày 22 tháng 9, 1974.
Hình dưới bên mặt, trang nhất của số báo ra ngày 31 tháng 10, 1974, ngày ST bị đưa ra toà xử về tội đã đăng nguyên văn bản cáo trạng của Phong Trào Nhân Dân Chống Tham Nhũng do Linh Mục Trần Hữu Thanh chủ xướng với sự tham gia của 300 linh mục.
Các hình bên trái là vài cảnh trong toà với vài trong số 205 luật sự nhận biện hộ cho ST. (Collage TD2008, rút từ cuốn Sóng Thần - Vụ Án Lịch Sử 31-10-74: Ngày Báo chí và Công Lý Thọ Nạn, tài liệu nội bộ, do Uyên Thao và Lê Thiệp soạn)