5-8-2022 | VĂN HỌC

Nhà Thơ Thế Viên

  TRẦN CÔNG NHUNG


    Nhà thơ Thế Viên

Năm 1974 trường Trung Học Võ Tánh Nha Trang có một giáo sư Việt văn mới đổi tới, nổi tiếng thơ hay: Giáo sư Hồ Thế Viên, tức thi sĩ Thế Viên. Dạy chung trường nên chúng tôi dễ quen nhau. Tôi lại có cơ hội ghi thêm chân dung một nhà thơ mà trước giờ chưa hề biết. Thế Viên ở một căn lầu chung cư A, Chợ Đầm. Anh đi bộ mỗi ngày đến trường Võ Tánh. Hình như chuyện gia đình của anh có "vấn đề" nên anh sống một mình. Nhắc tới các nhà làm Thơ, Văn, Nhạc, Họa...  nói chung là giới nghệ sĩ, ai cũng hình dung họ có một ngoại hình lôi thôi lếch thếch, nhưng Thế Viên thì lúc nào cũng "nhẵn nhụi bảnh bao". Không chỉ những lúc anh đứng trên bục giảng, ngay chốn vui chơi bè bạn, bao giờ trông anh cũng giống như một quan khách trong buổi lễ long trọng. Anh có kích thước dưới trung bình, không mập lắm và nhờ trang điểm nên rất dễ coi. Nước da bánh mật tóc hơi quăn, lúc nào cũng mướt dầu Brillantine. Tôi có cảm tưởng anh cùng dòng máu với ca sĩ Chế Linh. Giọng nói và tiếng cười sang sảng rất nam nhi chi khí, nhưng bàn tay anh, những ngón tay cán bút rất con gái, lúc nào cũng mềm nhũn. Anh không gây được cảm tình từ cái bắt tay.


Nếu bên ngoài, lúc nào anh cũng tươm tất thì bên trong anh sống cả một "cuộc đời nghệ sĩ". Ở, chung cư. Ăn, nhà người bà con, anh Đài y tá tại Trung Tâm Y Tá Nha Trang. Nhưng không mấy khi anh ăn cơm nhà, bữa ra Kiosque số 1 ngoài bờ biển, bữa vào Dân Thiên đường Độc Lập. Tôi đã vất vả với nhà thơ này từ ngày thân với anh. Hôm nào tan trường, anh cũng quá giang về theo nhưng ít khi về chỗ anh ở. Xe chạy đến gần Chợ Đầm là anh bảo vòng ra biển rồi tấp vào một Kiosque nào đó. Uống thì vào Kiosque số 1, có các cô son trẻ để tán dóc. Ăn thì vào Kiosque Phong Thủy nơi có nhiều món đặc sản hấp dẫn. Không bao giờ anh để ý đến thời gian.


Hôm nào không gặp tôi ở trường, anh lại ngồi xích lô đến nhà tìm. Anh luôn luôn có sẵn một câu chuyện hợp lý để lôi tôi ra khỏi nhà. Có khi, đi luôn cả đêm. Một lần đưa anh đi ăn nhậu đến 9 giờ đêm, tưởng được về nghỉ ngơi, không ngờ anh dẫn tôi tới một sòng xì phé trên đường Bạch Bằng. Anh bảo chơi một lúc thôi. Rồi một tiếng, hai tiếng đến khi thấy tôi ngáp ngắn ngáp dài thì anh nài nỉ "ráng chút", và mỗi lần được bạc anh lại bốc một nắm nhét cho tôi. Ngoài tài làm thơ dạy học, anh còn ba "thiên tài" khác: uống rượu, nhảy đầm, đánh bạc. Anh có sức khỏe phi thường, thức trắng đêm mà không thấy mệt. Nhờ nước da ăn ảnh và lối trang điểm rất "neat" nên chân dung anh lúc nào cũng rõ ràng sắc cạnh. Anh có dáng dấp một hoàng tử, một bá tước hơn là một nhà thơ.


Cuộc triển lãm Chân Dung Văn Thi Sĩ được sự bảo trợ của ông Nguyễn Đức Ân, Giám Đốc Công Ty Shell Nha Trang. Chính nhà văn Võ Hồng viết thư giới thiệu tôi với ông Ân, ông là người thích những hoạt động về văn hóa nghệ thuật (sau những ngày loạn ly, ông còn hay mất, tôi muốn nhân đây gởi một lời thăm đến ông). Ông Ân ký cho tôi chi phiếu 60 ngàn, bằng một tháng rưỡi lương của tôi thời đó. Tôi định nhờ anh Dương Kiền hoặc anh Võ Hồng viết lời giới thiệu đầu tập tổng mục (Catalog), nhưng Thế Viên cứ nằng nặc dành cho được. Anh nói sẽ bỏ tiền in phần ruột, tôi chỉ lo bìa. Tôi không mấy tin tưởng vì hai địa hạt nghệ thuật khác nhau, vả lại mới quen nhau, anh chưa biết nhiều về tôi. Tôi nói:

- Được, hôm nào ông xuống nhà, tôi trải hết ra cho ông xem, ta bàn với nhau rồi ông hẵng viết. Nhưng nhớ cho tôi xem trước.


Không ngờ bài viết của anh rất súc tích và hay một cách bay bướm. Cuộc triển lãm diễn ra vào mùa tựu trường niên khóa 74-75. Năm đó, hầu như trường tư nào cũng mời anh phụ trách môn Việt Văn các lớp đệ nhị cấp. Và tôi hiểu tại sao anh cứ đòi viết bài cho tập danh mục. Đến bây giờ mỗi khi đọc lại tôi vẫn còn ngạc nhiên, làm sao mà anh viết hay tới như vậy.


Cuối tháng 3-75 thì mạnh ai nấy di tản. Rồi tù tội. Cho đến năm 90 tôi gặp anh trong Hội Hoa Xuân vườn Tao Đàn. Anh dắt theo một cháu trai chừng năm tuổi, đứa con sau cùng của anh với người ca sĩ trẻ. Người mẹ đã nghe tiếng gọi của con tim, bỏ lại bố con anh, đi vượt biển với người tình (học trò của anh). Anh không khổ, anh vẫn làm thơ ca tụng cái đẹp của người đàn bà đã sống với anh một thời. Anh xem những chậu kiểng của tôi rồi viết ngay mấy câu cảm đề:


Tiếng xưa từ xa vọng

Ngoái đầu trông cố hương,

Dĩ vãng về trong mộng

Như một góc thiên đường

(Chậu kiểng có tựa đề "Hoài Cố Hương")


Anh làm thơ nhanh và dễ như anh uống bia. Qua 91 khi tôi có khu vườn Bosanobo tại 61 Yersin Nha Trang thì anh thường ra Nha trang chơi. Mỗi lần ra, anh lại kéo Triệu Phong (thơ) Thanh Hồ (họa) đến chỗ tôi ngồi nhậu. Lúc đầu đi mua rượu giùm, về sau vườn cà phê lại phải bán kèm thêm rượu. Cái khổ là lúc quí vị đã ngồi vào với nhau thì không còn biết trời trăng gì nữa. Bên ngoài, tôi nghe chuyện mà buồn cười. Vẫn câu chuyện cũ, vậy mà rượu vào là các ông kể ngon lành như mới lần đầu.


Họa sĩ Thanh Hồ thì lúc nào cũng thủ sẵn Điệu Ru Sợi Tóc (tựa tập thơ ế ẩm của Triệu Phong) để tấn công tác giả. Nhà Thơ thì thuộc lòng câu chuyện "Láp Xe Đọp" giọng Quảng Nam để đáp lại Nhà Họa Sĩ (người gốc xứ Quảng). Chuyện kể: Trong lần về Sài Gòn công tác Thanh Hồ vào một tiệm bán xe đạp nói một cách dõng dạc: Bán cho cặp "láp xe đọp". Người bán hàng ngớ một lúc rồi trả lời: Dạ hết rồi. Thanh Hồ đưa tay chỉ một sào lốp xe treo lơ lửng và la to: Cả đống kia mà hết à? Sau khi Họa Sĩ mang cặp lốp xe ra khỏi tiệm người bán hàng chưởi thề: Đ.m. lốp xe đạp không nói lại còn nói lái "láp xe đọp".


Dạo đó Thế Viên xài tiền như nước, hỏi ra mới biết anh có con ở Mỹ chi viện đều đều. Và anh cũng đang thời kỳ chờ phỏng vấn để đi đoàn tụ. Có lần (92) Thế Viên đưa ban biên tập Tạp Chí Mỹ Thuật Thờì Nay trong đó có Vũ Hạnh, Tô Kiều Ngân từ Sài gòn ra thăm khu vườn Bosanobo. Hồi đó sức khỏe anh vẫn bình thường. Vậy mà qua năm 93 tôi nghe tin anh đã ra đi vĩnh viễn sau một cơn thổ huyết. Ngày rời quê hương tôi tìm đến chỗ anh ở (Trần Đình Xú, sau đường Trần Hưng Đạo Sàigòn) để thắp cho anh một cây nhang, nhà vắng tanh, không có ai mở cửa. Nay cháu Thế Anh ít lắm cũng 12 tuổi, không biết mẹ cháu có tìm cách đưa cháu đi không. Ngày còn sống, anh lo cho cháu Thế Anh một cách đặc biệt. Dường như trước đó anh chưa hề có con trai. Anh viết nguyên một tập thơ nói về cảnh gà trống nuôi con, đời sống tình cảm sau cùng của anh. Tựa đề bằng chữ Hán, tôi không sao nhớ nổi, nhưng ý nghĩa ẩn dụ sao đó mà nhà cầm quyền tra vấn anh mãi, rồi tịch thu bản thảo của anh. Không rõ về sau ra sao.


Thế Viên cũng là một trường hợp tài hoa mệnh bạc. Nhà Phật bảo "thọ thì khổ" mà anh thì mang trong mình nhiều thứ quá làm sao tránh cho khỏi!


Trần Công Nhung (4-2000)


Trần Công Nhung

Nguồn: tailieu.vn


Thơ Thế Viên


   Bài thơ này cho S.


Tôi đã không làm thơ một năm nay

một năm tôi đóng cửa

tôi không làm một bài thơ nào cho em

không một lời nào cho quê hương đau khổ

tôi không về Saigon

từ khi tôi giải ngũ

tôi vẫn sống nơi đây

vẫn nghe tiếng bom đạn hằng ngày

vẫn những chuyến xe chạy qua đầy binh sĩ

những vụ pháo kích ngã gục đàn bà con trẻ

những vụ gài mìn Claymore sát hại lính Mỹ

ở một góc quán đầu đường

cho em thêm một cái hôn

một cái hôn vĩnh biệt


thôi nhé bạn anh đã chết

bản tin tức cuối cùng của một ngày

dòng chữ cuối cùng của một cuộc đời

nụ hôn cuối cùng của một tình yêu.

một năm nay tôi không làm thơ

một năm nay tôi thường đóng cửa

tôi cũng không buồn trả lời thư bạn bè

ở trong nước hay ngoại quốc

ở những tỉnh lỵ xa xôi hay nơi tiền đồn hẻo lánh

tôi bỏ súng đạn một bên

để trở thành tên phản bội

chúng mang đến cho tôi tội lỗi

tội lỗi làm người

ôi những thằng bọ xít tanh hôi

ăn không dám ăn nói không dám nói

những tên chuyên nghiệp đánh thuê

những tên bắt đầu thú tội

em đừng hỏi tại sao anh vẫn sống

tại sao nước mắt vẫn lưng tròng

bạn bè thường vắng mặt

những vườn cây xanh buổi sớm không người qua

như em thường thấy

những đoàn chiến xa chạy về Châu đốc Cần Thơ

những nơi nào phi cơ oanh tạc

Pleiku, Kontum, Bình Dương, Bến cát

những nơi nào anh năm yên

những nơi nào em nằm yên

dòng lệ rơi trên mắt

nước mắt vẫn lưng tròng

Ôi em ôi em !

(1967)

Nguồn: Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến (Tập I)

Tủ sách Di Sản Văn Chương Miền Nam, Thư Ấn Quán tái bản 2007


   bài này dành cho Hạnh


1.

nửa đêm ngó xuống mặt đường

bóng chìm tuổi nhỏ kẻ từng ô vuông

mắt trong bụi đổ góc tường

mùi cay súng đạn nghe hương quê nhà

sông dài ẩm mốc bờ xa

lau cao ôm mặt xoá nhoà hình em

giọt mưa hồn ngủ giấc chìm

phố buồn vắng mặt nay xin cúi chào

nửa đêm bỗng nhớ em sao

một vùng trời đó khói cao mịt mờ.


2.

từ bao giờ từ bao giờ

sông xanh gọi dáng con đò nghìn xưa

dung nhan em bụi đêm mưa

nghe trong huyền thoại tiếng ca não nùng

yêu em buổi đó biết không

anh như hải đảo cô đơn bốn mùa

chim âu theo bóng ngựa hồ

xa trông núi biếc mịt mờ khói sương

một vùng sỏi đá biên cương

em lời cách biệt như rừng như mây

xin em một phút một giây

tuổi hồng khô héo xa bay thuở nào.

Nguồn: Một Thời Lục Bát Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008

Tủ sách Di Sản Văn Học Miền Nam


   Như người bỏ cuộc

      Tặng Đinh Thế Vinh


Ta nơi xứ lạ về đây

Vui chơi trong cuộc tháng ngày long đong

Bạn bè dăm đứa xa dần

Áo cơm vẫn chuyện một mình bơ vơ

Với sầu tư với đợi chờ

Người tình vẫn khóc những giờ bên nhau

Ta buồn như cỏ xanh rêu

Trong tim nghe xót xa điều ái ân

Ôi em ! khói lửa mênh mông

Thơ ta từ đó thêm vần đau thương

Nỗi đắng cay nỗi đoạn trường

Biển sâu còn lại mù sương trong hồn

Từng đêm nghe tiếng súng rền

Từng đêm ta ngỡ rằng mình chiêm bao

Ta đang lạc ở cõi nào

Hoa không thấy nở trăng sao thấy buồn

Khi nào ta trở về nguồn

Như người bỏ cuộc ta ngoài mê cung

Thơ ta từ đó thong dong

Trăng sao đầy túi nắng hồng đầy thân


Ta quên quên cõi hồng trần

Nằm sao dưới đất nỗi mừng trên cao

Nhân gian để lại đằng sau

Trơ thân cát bụi khối sầu tan theo

Ôi em! chiếc bọt cánh bèo

Ta về xứ lạ ôm bao mây trời

Nguồn: Một Thời Lục Bát Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008

Tủ sách Di Sản Văn Học Miền Nam


   Nỗi buồn lầu thu


Từ ngày anh đến gặp em

Lầu thu đầy gió tóc mềm đầy trăng

Biết nhau giờ đã một năm

Nói làm sao hết buồn giăng trong hồn

Nẻo về mờ bụi hoàng hôn

Chuyến xe đi khuất em còn vẫy tay

Mắt em lệ vẫn rưng đầy

Thương anh, em chịu những ngày khổ đau

Này đây chiếc ảnh ban đầu

Này đây thơ cũ một màu xanh xanh

Dáng em gầy yếu mong manh

Áo vàng lẫn với tóc bềnh bồng trôi

Hoa tim vẫn thắm trên môi

Tháng ngày anh vẫn ngờ ngờ nhớ thương

Biết bao giờ mộng ngát hương

Biết bao giờ hội yêu đương xây thành

Lầu thu sẽ đẹp trăng thanh

Tình em sẽ đẹp tình anh bốn mùa

Anh về hết nỗi buồn xưa

Xe hoa kết sẵn đợi chờ cưới em.

Nguồn: Một Thời Lục Bát Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008

Tủ sách Di Sản Văn Học Miền Nam


   Cho anh làm tình nhân

        Nguồn: Thơ Tình Miền Nam, Thư Ấn Quán 2008


   Vết thương


1.

Tiếng nước nào chảy trong lòng bàn tay

Giọng ca nào đổ xuống vai này

Em mùa thu môi mọng

tà áo bay tà áo bay,

Ôi! Bóng hồn xuống chậm.

Những con chim sáo nhỏ trên trời

Chẳng bao giờ buồn nghe bão tố

Và chúng tôi những người

Của thế kỷ hai mươi – dằn vặt u uất

Ôi! Những đám mây mùa thu không trở lại

Trên đôi chân gầy – đá – sỏi khô – chết – tình yêu.

Ôi! Một sớm một chiều

Tóc em thành cuồng-phong mắt em thành lửa biển

Anh làm thơ bằng nửa phiến tim buồn

Và gọi dậy thời gian gọi dậy

Huyền bí đông phương.


2.

Từ giã lâu rồi đồng-xanh-khô-cỏ

Mái lều xa đốm-lửa-khuya-rừng

Thành phố nơi đây khoác áo chiến binh.

Tường vôi loang lổ

Anh nhìn đó bao bài thơ bỏ dở

Cọng rêu xanh đầm suốt linh hồn

Từng đàn xe chạy từng nụ cười vang

Bước chân cẩm thạch

Anh nhìn đó một mặt trời mới mọc

Sóng xô dồn bãi cát-trắng-hồng-gương

Loài sò ốc đọng mù sương

Thở lên thở lên hấp hối.

Anh nhìn đó và mùa thu đi vội.


3.

Xin về trong thư viện

Xin về trước thánh đường

Bàn tay em lật trang kinh cầu nguyện

Những chòm lá xanh bắt đầu tàn rụng

Âm vang không trung

Ôi! Nước mắt – nụ cười – rêu xanh – lửa biển

Móng tay dài vuốt nhọn tình yêu

Em còn đó giấc ngủ buổi chiều

Mùa thu rắc phấn trên trời rộng

Chúng tôi áo mềm vai nặng

Hồn-gọi-xưa bằng tiếng thì thầm

Bom đạn.

12-1962

Nguồn: thica.net


   Dọc đường


Em ở miền Nam mây trắng bay

Ðồng xanh bát ngát tóc vương đầy

Mận đào hồng ửng lên đôi má

Muôn nẻo em về hoa nhẹ lay


Tôi ở miền Trung xứ cát dừa

Sông Hương núi Ngự đọng buồn xưa

Bút nghiên đốt sạch theo chinh chiến

Trôi dạt vào Nam gối giấc mơ


Cứ mỗi buổi chiều tôi gặp em

Áo vàng lẫn với nắng vàng êm

Em nhìn núi biếc in trong mắt

Ngơ ngẩn tôi về thức trắng đêm


Thương nhớ em rồi không ước hẹn

Núi sông chuyện cũ tưởng phai mờ

Bỗng dưng một sáng trùng dương gọi

Tôi vội lên đường quên giấc mơ


Tôi bốn phương trời em một phương

Gặp nhau từ buổi biết yêu đương

Sông hồ cách biệt xa đôi ngả

Em ở miền Nam tôi dọc đường.

Nguồn: thica.net