Bìa tập THƠ ĐỖ NGHÊ (Ý thức, 1974)
Tranh Nguyễn Trung
Trình bày Hoàng Đăng Nhuận
Có lần chúng tôi nói đến hiện tượng mới hình thành trong sinh hoạt văn nghệ hồi gần đây, là loại sách in hạn chế (chỉ một vài trăm bản), phổ biến hạn chế (trong vòng thân hữu).
Lần này chúng tôi xin giới thiệu một tác phẩm thuộc loại ấy: “Thơ Đỗ Nghê” mới ra đời, do nhà Ý thức ấn hành 200 bản, với lời bạt của Lữ Kiều.
Tác giả không phải là người xa lạ. Trước đây bảy năm Đỗ Nghê đã cho xuất bản một thi tập (Tình người). Cách đây hai năm- dưới một bút hiệu khác trong một tủ sách khác (y sĩ chứ không phải thi sĩ) - ông đã cho xuất bản một tác phẩm về y học.
Thi phẩm vừa in dày 80 trang, gồm 31 bài thơ, trong đó có những bài đã được viết ra từ chin, mười năm trước, hồi tác giả còn là một sinh viên.
Phải chăng vì tác phẩm gom góp những sáng tác tản mạn trong một thời gian khá dài, bao trùm nhiều chủ đề khác nhau, phản ánh nhiều giai đoạn tâm tình khác nhau mà nhà thơ phân vân việc chọn nhan đề cho tác phẩm? “Thơ Đỗ Nghê” đó có vẻ là một nhan đề của toàn tập thi phẩm, điều mà chúng ta nghĩ rằng tác giả chưa nghĩ đến vào lúc này: tác giả hãy còn quá trẻ.
Sự thực, dù tản mạn trong mười năm, dù đề cập đến nhiều đề tài, giữa các bài thơ trong tập không phải không có một mối liên hệ. Có lẽ không được đặt thành chủ đề chung, nhưng mối ưu tư về “chiến tranh và hòa bình” bàng bạc, thấm nhuần gần khắp các sáng tác của ông Đỗ Nghê trong mười năm qua.
Hoặc trong lúc ru con bằng những lời mỉa mai:
... “Ngủ đi con ngủ đi con
Ngày mai rồi khôn lớn
Cầm súng với cầm gươm (trang 14)
Hoặc trong lúc ru... vợ, bằng những lời cay đắng:
“Ngủ đi cưng ngủ đi cưng
Kề tai đây anh bảo
Coi như mình chẳng có quê hương (trang 19)
Hoặc khi nhắc lại huyền thoại Lạc Long Quân chia con đi hai ngả để liên tưởng tới tình trạng Nam Bắc lưỡng phân hiện thời (trang 5); hoặc khi nói về cổ tích ngôn ngữ để ám chỉ cuộc xâu xé liên miên giữ các dân tộc (trang 33); hoặc nghe một bản tin thời tiết hàng ngày (trang 36); hoặc làm một bài vè cho niềm mơ ước đơn giản (trang 48) v.v..., lúc nào người ta cũng nhận thấy nhà thơ bị vấn đề chủ yếu nọ ám ảnh: Chiến tranh trên quê hương; Hòa bình cho quê hương.
Nếu không được đặt ra làm nhan đề lộ liễu, thì thiết tưởng đó vẫn là chủ đề kín đáo của tác phẩm.
Người đề bạt tập thơ là một đồng nghiệp của tác giả, lại cũng là một văn hữu đối với tác giả- Trên đường đời, hai người đã quen nhau từ thuở còn đi học. Vì vậy, có lẽ chúng ta không mong biết gì hơn về Đỗ Nghê hơn là Lữ Kiều.
Nhận xét về bạn mình trong buổi đầu tiên mới gặp nhau, Lữ Kiều thấy Đỗ Nghê là “một người nghiêm túc”. Rồi “hơn 10 năm qua, tôi đã không nhầm về cái trực giác đầu tiên ấy. Một người nghiêm túc. Và điều quan trọng, anh làm thơ, và thơ anh cũng giống như người anh vậy”. (trang 75)
Chúng tôi tán đồng cái trực giác của ông Lữ Kiều: quả họ Đỗ là một người nghiêm túc, ít ra là ở cái phần cốt cách cùng tâm hồn thể hiện trong văn chương.
Ở xứ ta, mỗi ngày mỗi thêm nhiều người làm thơ. Để được nổi bật, được chú ý giữa đám đông, lắm kẻ giở trò lập dị táo tợn hò hét ồn ào; hoặc nói năng ngang tàng, kiểu cách, hoặc tục tĩu dâm ô v.v... Ông Đỗ không hề có những dụng ý như vậy.
Mặt khác, dù không lập dị, thì lớp trẻ thời chiến, sống trong sự đe dọa thường xuyên giữa lằn ranh sinh tử, lớp trẻ ấy hay nói đến say sưa, khoái lạc, nói giọng liều lĩnh, bất cần đời v.v... Ông Đỗ không hề có thái độ ấy.
Xót xa, đau đớn, ông cũng xót xa đau đớn vì thời cuộc như ai; nhưng ông không liều, không phá, không đọa lạc. Lúc nào ông cũng đứng đắn, chững chàng, nghiêm chỉnh, giản dị. Nỗi đau xót của một người như thế lịm hẳn vào bên trong.
Toàn thi tập không có thơ lục bát và song thất. Chỉ có thơ thất ngũ ngôn và thơ tự do. Điều lạ lung là ngay trong những bài thơ tự do, những câu thơ dài ngắn không đều, nhịp thơ như khấp khểnh lảo đảo, vậy mà phong thái vẫn không mất vẻ nghiêm túc!
Ơi những con đường ta đã đi
Gia Long, Đồng Khánh mượt xuân thì
Chân run rẩy cát bờ Thương Chánh
Gió ở đâu về thơm bước khuya (trang 11)
Những câu như thế nghiêm túc đã đành. Mà những câu “tự do” sau đây viết vào dịp Giáng sinh 1967:
Chúng ta có 24 năm chiến tranh
Và 24 giờ ngưng bắn
Ôi 24 giờ ngưng bắn
Cũng đủ lắm rồi...
Cũng đủ lắm rồi cho con về thăm cha
Nằm trong lòng đất lạnh (trang 31)
những câu ấy đâu có vì tự do mà mất vẻ nghiêm túc?
Bấy lâu nay người ta vẫn thường quen với hình ảnh những chàng thi sĩ tếu, lang bạt kì hồ, thi sĩ ngất ngưởng chuếnh choáng v.v... Cho nên một thi sĩ nghiêm túc thoạt tiên có thể làm ngạc nhiên bỡ ngỡ.
Nhưng điều ấy tưởng không mấy quan trọng: trước lạ sau quen, miễn là có tài, chẳng mấy chốc chàng sẽ được mọi người mến yêu.
Cái điểm thứ hai nơi ông mà người bạn Lữ Kiều không kịp phát hiện bằng trực giác, ấy là cái đôn hậu. Tức là điểm trái ngược hẳn lại với sự khô khan, lạnh lùng.
Một hôm, họ Đỗ nhớ về quê xưa:
“Em có về thăm Mũi Né xưa
Con đường sỏi đá vẫn quanh co
Hoàng hôn sóng vỗ bên trời biếc
Sóng vỗ trong hồn ta ngẩn ngơ
Em có về thăm Mũi Né yêu
Mười năm như một thoáng mây chiều
Mười năm vườn cũ chim bay mỏi
Áo trắng chân mềm em hắt hiu.” (trang 9)
Lời thơ không chút gì cầu kỳ, đọc lên lại nghe có vẻ quen quen như từng gặp ở đâu đó. Thế mà những lời giản dị quen thuộc đó lại làm ta xúc cảm, bâng khuâng. Ấy chính bởi cái vẻ chân thành, cái đôn hậu tỏa ra từ tấm lòng người thơ.
Họ Đỗ nói đến chiến tranh, nói đến bom đạn, đến chết chóc, đủ mọi thứ đáng khiếp đáng hãi; nhưng không một lần nào lời thơ có vẻ ác liệt bạo tàn.
Không thể tìm ở đâu ra trên đời này một con người hiền lành hơn.
Cái hiền lành đôn hậu của họ Đỗ không phải chỉ để sánh với người đời mà thôi. Nó còn làm mất cả khí phách (!) của thần linh trong huyền thoại nữa. Ông tổ Lạc Long Quân trong thơ Đỗ Nghê là một ông cụ già dễ thương không biết chừng nào. Không biết ông tung hoành lẫm liệt giết Hồ tinh Ngũ tinh ở đâu, chứ ở đây ông cụ chỉ có băn khoăn, hối hận, đấm ngực chịu lỗi vì trót chia hai đám con khiến chúng nó gây sự đánh nhau. Ông cụ van vỉ con cháu:
Đốt hết sách vở, xé hết cờ xí đi
Rồi đứng ôm nhau mà khóc
Nước mắt sẽ làm tươi lại cỏ cây
Nước mắt sẽ làm phì nhiêu mảnh đất (trang 7)
Nhưng trước hết, đó là những giọt nước mắt đôn hậu làm đẹp một thi phẩm, điều mà Lạc Long Quân không kịp nghĩ đến!
(Chính Luận 20.11.74)
* Thu Thủy bút hiệu của nhà văn Võ Phiến