Thi sĩ Bàng Bá Lân
(1913 - 1988)
Mỗi khi ta nhắc đến tên một thi sĩ, người nghe thường hỏi lại, hay nói thêm, về sự đặc biệt của thi sĩ ấy, hay một điển hình nào đó, một tiêu biểu nào đó, để sự nhắc nhở có thêm ý nghĩa, thêm đậm đà.
Chẳng hạn có người nhắc đến nhà thơ Tú Xương, người ta thường nói “Ông tú Vị Xuyên,” hay “Tác giả bài thơ trào phúng Chúc Tết phải không: Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau.” Nhắc đến Tản Ðà, người ta nhắc đến nhà thơ “Núi Tản sông Ðà,” hay bài “Thề Non Nước,” bài dịch “Hoàng Hạc Lâu,” vì đó là bài lục bát nổi tiếng nhất của ông, và bài dịch kiệt xuất của sự dịch thơ Ðường sang tiếng Việt. Gần chúng ta hơn, nói tới Vũ Hoàng Chương, người ta nhắc đến Thơ Say, đến “Mười Hai Tháng Sáu;” nói đến Nguyễn Bính, người ta nhắc đến “Lỡ Bước Sang Ngang,” đến “Em ơi em ở lại nhà, vườn dâu em hái mẹ già em thương.”
Thuở đất nước phân ly, Thơ hai miền của Việt Nam là hai thái cực, còn hằn đọng tới cả nửa thế kỷ sau. Miền Nam sau 54, nói đến Thanh Tâm Tuyền là có thể nhắc đến “Tôi không còn cô độc,” hay đọc vài câu thơ tự do điển hình của ông về tình yêu và thành phố: “Anh sợ những cột đèn đổ xuống, Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta, Bóp chết mọi hy vọng, Nên anh dìu em đi xa.” Nhắc đến thi sĩ Quách Thoại người ta nhớ đến “Như Băng trường tình” hay có thể đọc ngay thơ ông: “Mặt trời mọc! Mặt trời mọc! Rưng rưng màu hoa gạo, Lỡ một ngày mai tôi chết trần truồng không cơm áo!” (Còn sáng tạo ta hãy còn sáng tạo).
Có một hai trường hợp lạ thường là có những câu thơ cả trăm người thuộc, mà không ai biết hai câu đó xuất xứ từ bài nào, không ai trưng dẫn được tên bài thơ, đó là hai câu nổi tiếng:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
Có người nghĩ đó là hai câu ca dao, tức là thơ do người dân vô danh làm ra, người dân ở đây không phải là một cá nhân, mà là nhiều người, mỗi người thêm thắt một ý, một chữ, cho đến khi nó trở thành toàn bích, nghĩa là không một ai là tác giả, mà tác giả là đám đông.
Nhưng có một thi sĩ nổi danh nhận rằng hai câu ấy là do ông làm, đó là thi sĩ Bàng Bá Lân. Tôi tin ông, vì ông vốn là một người không vướng mắc gì vào những chuyện tầm phào. Ông lại từng có những bài thơ xuất sắc.
Thi sĩ Bàng Bá Lân vốn họ Nguyễn - xuân, sinh tháng 11 Nhâm Tý (1913) tại Phủ Lạng Thương, song chính quán tại huyện Bình Lục, Hà Nam, nổi tiếng từ thời Tiền Chiến là một nhà thơ nồng nàn tình yêu đồng ruộng, mà thi phẩm đầu tay là Tiếng Thông Reo, xuất bản từ 1934 tại Hà Nội. Thơ ông mộc mạc, chất phác như tâm tình chân thật của ông với cuộc sống, bởi ông làm thơ từ cảnh từ tình trong cuộc sống của chính mình.
Nếu nói về toàn thể, sự nghiệp thơ ông không đồ sộ, song nếu có thi sĩ chỉ cần một bài mà lưu danh hậu thế, thì ông chỉ cần bài “Ðói.” Bàng Bá Lân - và chỉ có ông, làm bài thơ cảm xúc nhất, dài nhất, kỹ nhất, về nạn đói năm Ất Dậu 1945.
Bản thân người viết có nhiều kinh nghiệm về nạn đói năm Ất Dậu 45, khi còn là một đứa trẻ 7 tuổi. Một buổi trưa, đang đứng trước nhà ở Ga Ðồng Văn, vừa đưa chiếc bánh nếp lên miệng, thì vèo một cái như con quạ đen từ giữa đường cái quan, một thiếu niên cỡ 14, 15 đã bay xẹt qua tôi và trở lại chỗ cũ, miệng nó đang nhai nuốt cái bánh của tôi, còn vướng một mảnh lá bọc bánh trên miệng, hai hàm răng trắng nhởn, hai tròng mắt trắng nhởn nhìn tôi trừng trừng, còn tôi thì tay phải vẫn giơ lên trong cử chỉ đưa chiếc bánh vào miệng mình. Tôi không buồn tiếc gì vì trong nhà còn cả rổ bánh nghi ngút trên nồi nước mà mẹ tôi vừa nấu xong, nhưng tất cả đã làm tôi ngơ ngẩn. Sau này trưởng thành, nghe nói và đọc sách báo, dường như trận đói ấy đã giết cả “hai triệu người” miền Bắc? Tôi chưa được đọc một tài liệu chính thức nào, nên chưa thể gọi là biết đúng sự việc ra sao, ngoài vài tấm hình.
Chỉ một bài thơ Ðói, Bàng Bá Lân trên phương diện một tác giả, đã để lại cho đời sau ý thức về xã hội mà ông, một kẻ cầm bút, đã là một chứng nhân.
ÐÓI
Năm Ất Dậu tháng ba, còn nhớ mãi
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường
Rồi ngã gục, không đứng lên, vì đói!
Ðói tự Bắc Giang đói về Hà Nội,
Ðói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.
Khắp đường xa những xác đói rên nằm
Trong nắng lửa, trong bụi lầm, co quắp.
Giữa đống giẻ chỉ còn là hố mắt
Ðọng chút hồn sắp tắt của thây ma.
Những cánh tay gầy quờ quạng khua khoa
Như muốn bắt những gì vô ảnh
Dưới mớ tóc rối bù và kết bánh
Một làn da đen sạm bọc xương đầu
Răng nhe ra như những chiếc đầu lâu.
...
Chết!
Chết! Chết! Hai triệu người đã chết!
Ðể nhớ thi sĩ, mất vào 21 tháng 10, 1988, xin chọn bài trên (dù chỉ vài đoạn vì bài thơ rất dài, đúng ra là một bài Trường Thi), như một điển hình cho Bàng Bá Lân, và một tiêu biểu trong Thơ Miền Nam, bài thơ mà ông làm sau khi đã vào Sài Gòn, hoàn tất vào tháng 5, 1957. Thế hệ cha anh chúng tôi và thế hệ chúng tôi chưa một ai viết được sự thật về nạn đói này. Chỉ nói chung chung là do quân Nhật gây ra. Tin tức kiểu truyền miệng, tệ hơn nữa là tin tức tuyên truyền có tính chính trị. Tôi hoàn toàn không tin. Thời đó nước ta ở dưới sự thao túng của ít ra là bốn thế lực: Pháp, Nhật, Việt Minh, Tầu, chứ không phải chỉ có Nhật. Và Mỹ, thế lực kết thúc Thế Chiến Thứ Hai, trong vòng vài chục ngày, đã đánh chìm hai trăm tầu bè của Nhật ngoài khơi Việt Nam, dĩ nhiên trong đó có chở lương thực cho quân Nhật ở Ðông Dương. Quân chiếm đóng đói, thì dân phải chết.
(VL, trích đoạn Hồi Ký 60 Năm Làm Thơ Viết Văn Làm Báo)