Nguyên Sa
(1932-18.4.1998)
(Nguyên Khai vẽ)
Như một số bằng hữu thời chiến tranh miền Nam
Tôi ẩn trú trong giao-thông-hào-xanh của thơ Nguyên Sa. (*)
Đó là những bài thơ tình như những trái bom lãng mạn
thăng hoa hoặc chia sẻ với tình yêu đôi lứa.
Nó cấy mầm hân hoan giữa một đời sống bầm giập!
Nó đẩy lui mọi bất trắc giữa hai đầu sống / chết của thế hệ chúng tôi
Mặc dù thời đó, cũng như bây giờ
Có đôi ba người (cũng làm thơ)
Lại lên án những bài thơ-tình của Nguyên Sa
(Và thơ tình của những nhà thơ khác)
Họ tuyên bố lén lút trong những họp mặt dăm ba người rằng
Thơ-tình thực chất chỉ là thơ… “tán gái!”
Họ có thể bị tiêm nhiễm bởi chủ trương:
“…Nhà thơ cũng phải biết… xung phong?!?”
Tuy nhiên, tôi vẫn nghĩ,
mỗi người làm thơ
Đều tuyệt đối tự do với khuynh hướng riêng tư của mình.
Nhưng khi những người này mạt sát “thơ-tình”
Thì tôi chỉ có thể hiểu: Do tỵ hiềm, mặc cảm
Họ là đám là dây leo trên cây cành thi ca Việt Nam phong phú.
Họ kiến tạo những “thời sự… giả”
Vì chiến tranh, cách gì cũng đã chấm dứt
Chí ít cũng trên thực tế trận địa.
Họ tiếp tục nói về những tang tóc quá khứ
Như thể đó là ý nghĩa thực sự của cuộc sống hôm nay…
Họ có quyền!!!
Chỉ duy một điều,
khi họ bẵng quên rằng:
Thơ-Tình hay thơ “tán gái” chính là một thứ dưỡng chất tinh thần
Một thứ keo sơn được ngợi ca khắp cùng trên trái đất,
giống như âm nhạc
nó an ủi những chia ly, tan tác nhất
Nó giúp nhân loại tìm đến nhau,
để yêu thương
nối tiếp sinh tồn
(nhờ vậy mà có những kẻ bỉ thử thơ tình).
Tôi trộm nghĩ, nếu thi sĩ Nguyên Sa sống lại,
Ông cũng chỉ thấy tội nghiệp cho những cái đầu mất thăng bằng
bệnh hoạn này.
Và, sẽ kết luận bằng mấy chữ ông thường dùng thuở sinh thời:
“bọn sa-đích! ”
Với nhiều người,
Thơ Nguyên Sa không chỉ đem đến cho người đọc
những chân trời thơ mộng mới.
phong cách cách diễn tả bất ngờ của ông
Cũng làm thành những “cơn sốt” trong rung cảm của chúng tôi
Tôi tin nhiều người vẫn nhớ những câu hỏi như gửi cho chính mình
của Nguyên Sa:
“người về đêm nay hay đêm mai
người sắp đi chưa hay đi rồi
muôn vì hành tinh rung nhè nhẹ
Hay ly rượu tàn run trên môi”
(…)
“người về lòng tôi buồn hay lòng tôi vui
áo không có màu nên áo cũng chưa phai
tôi muốn hỏi thầm người rất nhẹ
tôi đưa người hay tôi đưa tôi?” (**)
Hay những câu thơ nói về mái tóc của người nữ,
chưa hề có trong thơ của chúng ta:
“Tôi sẽ sang thăm em
Để những mớ tóc màu củi chưa đun
Màu gỗ ai ghép làm thuyền
Lùa vào nhau nhóm lửa”
Ông cũng chắp cánh cho mơ mộng của tôi bay trên bom đạn với:
“Khi đám mây cao dừng trên nếp trán
Anh chợt nghe vỗ cánh chim bay
Trái thơm ngon nặng trĩu trên môi
Dòng suối lạ chảy qua hơi thở.”
ông vẽ chân dung thế hệ chúng tôi với:
“Hai mắt rỗng phải che bằng khói thuốc
Chúng tôi nằm run sợ cả chiêm bao
Mỗi buổi sáng mặt trời làm sấm sét
Nên nhìn đêm mở cửa chẳng đi vào”
Tôi nhớ, thời chiến chiến, trong “Phương Xa”
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương cũng đã để lại những câu thơ bất tử như:
“Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Một đôi người u uất nỗi chơ vơ,
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị,
Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ…”
Nhưng gần gũi hơn, trực tiếp hơn với chúng tôi
vẫn là thơ Nguyên Sa:
“Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt
Dăm nụ cười không đủ xóa ưu tư
Tay quờ quạng cầm tay vài tiếng hát
Lúc xòe ra chẳng có một âm thừa”
Hoặc:
“Cửa địa ngục ở hai bên lồng ngực
Phải vác theo trăm tuổi đường dài
Nên có gửi cho nhau vài giọng nói
Cũng nghe buồn da diết chạy trên môi”
Ông cũng là thi sĩ đầu tiên đã rất thậm xưng
khi so sánh người yêu của ông với
“chó ốm”, “mèo ngái ngủ”, “mắt cá ươn”:
“Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Để anh giận sao chả là nước biển!...”
Dù không biết “Nga” là ai,
Nhưng nhiều người trong chúng tôi vẫn thầm cám ơn
linh hồn của bài thơ thơ hiếm, quý ấy.
Như đa số những người cùng thế hệ thời tỵ nạn của mình,
Chúng tôi ẩn náu trong giao-thông-hào-thơ lục-bát Nguyên Sa
sau tháng 4-1975
Dù cho đám dây leo thi ca,
Khởi đi tự bởi cái đầu bệnh hoạn, đố kỵ
Vẫn tiếp tục gọi thơ-tình là thơ… “tán gái”
Nhưng thơ-tình Nguyên Sa
Vẫn thăng hoa nỗi buồn tỵ nạn:
Mở ra những chân trời cho thơ,
Khi từ một giáo sư trở thành thợ điện,
Ông viết:
“Ta vô dòng điện hai chiều
Xẹt ngang cũng đủ cháy vèo thịt da,
Em nằm ngay chỗ điện ra
Chỗ đuôi con mắt đèn hoa muôn màu…
Nghề thơ anh bỏ đã lâu
Gặp em sao nhớ nhung đầu dây xưa?”
Hoặc “Trận Vong”:
“những ngày còn chuyện binh đao
Thằng tuôn máu họng, thằng trào máu tim,
Ta còn nhớ mấy thằng em
Trúng cơn mưa pháo bỏ quên đường về
Ta là thằng Triệu Tử thua
Long thành cán cuốc, rượu chua mùi phèn,
Đứng đây, thành quách trong tim,
Ngọn cờ rách nát, cúi nhìn trận vọng.”
Ông cũng ghi lại tâm cảnh khác,
tiêu biểu cho một phần sinh hoạt quê người:
“Chờ em ở góc cây săng
Em không thấy tới ta nằm trong xe
Nhạc buồn ta vặn thật to
sao buồn không vỡ sao ta vẫn còn?”
Hơn thế, cuối đời, Nguyên Sa lại mở ra những đường bay
Tựa như vượt ngoài quỹ đạo cho thơ xuôi,
Với loạt hoài niệm được nhân cách hóa
Để hoài niệm trở thành nhân vật có đầy đủ thịt, xương, linh hồn, trí nhớ:
“Đi chơi cuối tuần tôi dắt ký ức đi theo
Ký ức thật vui, nó ôm chầm lấy bãi biển, tâm sự thật lâu với dòng sông, trò chuyện với đồng cỏ mà tôi không hề quen biết.
“Nó chạy tung tăng trên con lộ ở Hà Nội, ở Hà Đông, ở Sài Gòn, ở Paris, đường nào nó cũng biết thật rõ và nó di chuyển thật mau làm tôi lạc…”
Hay bất ngờ của những liên-ảnh đổi chỗ:
“Khi nàng hì hục, lúc buổi chiều, đắp pho tượng tuyết, tôi không hề biết gì về điều đó,
Khi nàng cắm lên vai pho tượng tuyết chiếc cành khô nàng gọi là cây nêu, tôi không hề biết gì về điều đó,
Khi nàng đeo lên tay pho tượng tuyết chiếc hộp giấy màu đỏ, nàng gọi là bánh pháo, tôi cũng chưa hề biết gì về điều đó
(...)
“… Nửa khuya nàng đánh thức tôi dậy, nói dậy đi, dậy đi anh, giao thừa rồi, tôi ngồi dậy, chúng tôi mặc quần áo mới, chúng tôi thắp nhang, chúng tôi uống trà với nhau, ngồi tựa lưng vào nhau, hát cho nhau nghe bằng ánh sáng của những ngày mới gặp nhau.
Khi nàng quay đầu lại tôi thấy mắt nàng đỏ hoe, mắt nàng ngơ ngác giống như mắt con vành khuyên một mình, để định hướng, bay theo những màu vàng của một khu rừng mai.
Tôi thật sự không có ý niệm gì về màu vàng, khu rừng mai và con chim ngơ ngác đó.
Tôi cũng không biết khi nàng ngủ say, tôi ra đứng bên cửa sổ,
tôi không biết ở ngoài cửa sổ có con vành khuyên đang bay lộn vòng
Tôi không biết tôi đứng ở dưới,
Tôi không biết con chim bay quanh trên đầu tôi,
Tôi không biết sau đó, chúng tôi đổi chỗ,
Con chim đứng làm pho tượng tuyết và tôi bay lượn trên không trung,
Trên những màu vàng
Của khu rừng mai trong kiếp khác.”
(Một ẩn dụ, hoài niệm quê hương?)
Cuối đời, những năm, tháng lưu vong,
Người thi sĩ làm thợ điện nói về những điều ông không biết
Lại chính là những điều ông biết rất rõ…
Cũng như thế hệ chúng tôi trong chiến tranh và di tản biết rất rõ,
Chúng tôi có
Một thi sĩ thơ-tình lẫm liệt, như thế.
(April 2019)
_________________
(*) Nguyên Sa: Sinh 3-1932, tại Hà Nội. Mất tháng 4-1998, tại miền nam California.
(**) Tất cả thơ trong bài viết này trích từ “Thơ Nguyên Sa, Toàn Tập”. Nhà XB Đời, Hoa Kỳ, 1998.