Nhà văn Mai Thảo
Mai Thảo tên thật là Nguyễn Đăng Quý, bút hiệu khác: Nguyễn Đăng, ông sinh ngày 8-6-1927 tại chợ Cồn, xã Quần phương hạ, huyện Hải hậu, tỉnh Nam định (nguyên quán làng Thổ khối, huyện Gia lâm, tỉnh Bắc ninh, cùng quê và có họ với họa sĩ Lê Thị Lựu), cha là một thương gia và điền chủ giàu có. Mai Thảo hấp thụ tính yêu văn chương của mẹ gốc Bắc ninh. Thuở nhò học trường làng, trung học lên Nam định rồi Hà nội (học trường Đỗ Hữu Vị, sau là Chu Văn An).
Năm 1945, theo trường sơ tán lên Hưng yên. Khi chiến tranh bùng nổ năm 1946, gia đình từ Hà nội tản cư về quê chợ Cồn, trong "Căn nhà vùng nước mặn", từ đó Mai Thảo rời nhà vào Thanh hóa theo kháng chiến, viết báo, tham gia các đoàn văn nghệ đi khắp nơi từ Liên khu ba, Liên khu tư đến chiến khu Việt Bắc. Thời kỳ này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn chương ông. Năm 1951, Mai Thảo bỏ kháng chiến vào thành, đi buôn.
Năm 1954, di cư vào Nam. Viết truyện ngắn trên các báo Dân Chủ, Lửa Việt, Người Việt. Chủ trương báo Sáng Tạo (1956), Nghệ Thuật (1965) và từ 1974, trông nom báo Văn. Tham gia chương trình văn học nghệ thuật của các đài phát thanh tại Sài gòn từ 1960 đến 1975.
Ngày 4-12-1977, Mai Thảo vượt biển. Sau bảy ngày đêm trên biển, thuyền tới được Pulau Besar, Mã lai. Đầu năm 1978, được em bảo lãnh sang Hoa kỳ. Ít lâu sau ông cộng tác với tờ Đất Mới của Thanh Nam và một số báo khác tại hải ngoại. Tháng 7-1982 ông tái bản tạp chí Văn, làm chủ biên đến 1996, vì tình trạng sức khỏe trao lại cho Nguyễn Xuân Hoàng; hai năm sau ông mất tại Santa Ana, California ngày 10-1-1998.
Mai Thảo thích thơ, thuộc thơ, viết nhiều bài thơ dài từ năm 16, 17 tuổi, làm cả kịch thơ. Những tập thơ đầu đã thất lạc. Khi vào Nam viết văn, làm báo, ông bỏ thơ. Mười năm trước khi mất, Mai Thảo cho xuất bản tâp thơ duy nhất: Ta thấy hình ta những miếu đền, cô đọng những cô đơn mất mát của một đời người.
Tờ Sáng Tạo do Mai Thảo chủ trương, nhưng nếu kể về thâm niên, thì Mai Thảo là người đến sau. Sáng Tạo, theo Trần Thanh Hiệp, thoạt tiên là một nhóm sinh viên hoạt động trong Tổng hội sinh viên Hà nội, trước 1954, gồm bốn người: Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp, chủ trương nguyệt san Lửa Việt. Sau 1954, vào Sài gòn, tiếp tục hoạt động văn nghệ làm tuần báo Dân Chủ (do Trần Thanh Hiệp và Thanh Tâm Tuyền phụ trách phần văn nghệ), rồi tờ Người Việt (tiền thân của tờ Sáng Tạo). Lúc ấy Mai Thảo gửi đến truyện ngắn Đêm giã từ Hà nội, Thanh Tâm Tuyền đọc, thích và đăng ngay. Nhóm có thêm Mai Thảo, sau mở rộng với Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại. Trên Sáng Tạo, ngoài những tên tuổi kể trên còn thường xuyên thấy: Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, họa sĩ Thái Tuấn. Nguyệt san Sáng Tạo số đầu ra tháng 10 năm 1956. Sáng Tạo bộ cũ ngừng ở số 27 (tháng 12/58). Khoảng một năm sau ra bộ mới đến số 7 (tháng 3/62) thì ngừng hẳn.
Đoản thiên:
Đêm giã từ Hà nội (Người Việt, 1955)
Tháng giêng cỏ non (1956)
Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời (Sáng Tạo, 1963)
Bầy thỏ ngày sinh nhật (Nguyễn Đình Vượng, 1965)
Căn nhà vùng nước mặn (An Tiêm, 1966)
Đêm lạc đường (Khai Trí, 1967)
Dòng sông rực rỡ (Văn Uyển, 1968)
Người thầy học cũ (Văn Uyển, 1969)
Chuyến tàu trên sông Hồng (Tuổi Ngọc, 1969)
Tùy bút (1970)
Mưa núi (tập hợp những truyện ngắn trong Đêm giã từ Hà nội và Tháng giêng cỏ non, Tân Văn, 1970)
Ngọn hải đăng mù (Làng Văn, Toronto, 1987)
Một đêm thứ bảy (Tổ hợp xuất bản miền Đông Hoa Kỳ, 1988)
Hồng Kông ở dưới chân (Xuân Thu, 1989)
Chân bài thứ năm (Nam Á, Paris, 1990)
Chuyến métro đi từ Belleville (Nam Á, 1990)
Truyện dài:
Mái tóc dĩ vãng (Tiểu thuyết tuần san, 1963)
Cô thích nhạc Brahms? (phóng tác)
Khi mùa thu tới (Thái Lai, 1964)
Viên đạn đồng chữ nổi (Văn, 1966)
Đêm kỳ diệu, Cùng đi một đường (1967)
Sau khi bão tới (Màn Ảnh, 1968)
Tới một tuổi nào (Miền Nam, 1968)
Cũng đủ lãng quên đời (Hồng Đức, 1969)
Lối đi dưới lá (1969)
Mười đêm ngà ngọc (Hoàng Đông Phương, 1969)
Thời thượng (Côi Sơn, 1970)
Sống chỉ một lần (Nguyễn Đình Vượng, 1970)
Hết một tuần trăng (Tù sách Văn Nghệ Khai Phóng, 1970)
Sau giờ giới nghiêm (Tủ sách Văn Nghệ Khai Phóng, 1970)
Trong như hồ thu (Tủ sách Văn Nghệ Hiện Đại, 1971)
Mang xuống tuyền đài (Tủ sách Văn Nghệ Khai Phóng, 1971)
Một ngày của Nhã (1971)
Để tưởng nhớ mùi hương (Nguyễn Đình Vượng, 1971)
Sóng ngầm (Hoa Biển, 1971)
Sống như hình bóng (Tiếng Phương Đông, 1972)
Hạnh phúc đến về đêm (Nguyễn Đình Vượng, 1972)
Một đời còn tưởng nhớ (Hải Vân, 1972)
Gần mười bảy tuổi (Nguyễn Đình Vượng, 1972)
Chỉ là ảo tưởng (Sống Mới, 1972)
Suối độc (Nguyễn Đình Vượng, 1973)
Tình yêu màu khói nhạt (Nguyễn Đình Vượng, 1973)
Bên lề giấc mộng (Ngày Mới, 1973)
Chìm dần vào quên lãng (Tiếng Phương Đông, 1973)
Cửa trường phía bên ngoài (Đồng Nai, 1973)
Ánh lửa cuối đường hầm (Anh Lộc, 1974)
Ôm đàn tới giữa đời (Gìn Vàng Giữ Ngọc, 1974)
Những người tình tuổi song ngư (Xuân Thu, 1992) ...
Thơ:
Ta thấy hình ta những miếu đền (Văn Khoa, California, 1989)
Nhận định, hồi ức:
Chân dung mười lăm nhà văn, nhà thơ Việt Nam (Văn Khoa, 1985) Phạm Trọng Lệ, trên báo Văn số Tưởng mộ Mai Thảo (tháng 2/1998) đã sưu tầm một thư mục Mai Thảo, trong đó có ghi số trương mục những tác phẩm được lưu trữ tại các thư viện ở Hoa Kỳ.
Để giúp bạn đọc tìm hiểu tác phẩm của Mai Thảo, chúng tôi xin ghi lại sau đây nội dung một số những tập đoản thiên của Mai Thảo. Mai Thảo viết rất đều tay, nhưng cũng xin gạch dưới một số bài mà chúng tôi cho là những đoản thiên đặc biệt hơn, đáng chú ý hơn.
Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời (Sáng Tạo, 1963): Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời, Luân, Tiếng cười trên ấy, Người điên dưới chân sườn Tam Đảo, Buổi trình diễn cuối cùng, Người đàn bà trong vòng đai trắng, Trong rạp chiếu bóng, Bên kia cồn cát, Buổi sáng và ngọn suối, Vết hằn trên da.
Bầy thỏ ngày sinh nhật (Nguyễn Đình Vượng, 1965): Cô lái đò thời kỳ kháng chiến, Bầy thỏ ngày sinh nhật, Người đồng chí cũ, Cái lưới an toàn, Chuỗi hạt trai, Trong cơn mê sảng, Chân dung thành phố, Bước chân ngoài hành lang, Chấp một tay, Truyện tuổi nhỏ, Những người ở khách sạn.
Căn nhà vùng nước mặn (An Tiêm, 1966): Căn nhà vùng nước mặn, Họp mặt ngày giỗ bạn, Những vì sao thứ nhất, Chuyến tàu trên sông hồng, Một phố của trời, Quê hương trong trí nhớ, Giòng sông vết thương, Hôm nay đi chùa hương, Những đêm Sài gòn.
Người thầy học cũ (Văn Uyển, 1968): Những dò thăm không ngừng quá khứ, Căn nhà bên bờ suối, Người thầy học cũ, Người cha và người con, Sống như hình bóng, Con đường qua rừng, Thần tượng, Cái bót gác trong khu phố, Thư cho một người bạn.
Dòng sông rực rỡ (Văn Uyển, 1968): Nói chuyện với những người viết mới, Bước đi một bước, Dòng sông rực rỡ, Cửa sau, Cầu nguyện ngoài trời, Chiều cuối năm, Lá cờ đỏ chói.
Chuyến tàu trên sông Hồng (Tuổi Ngọc, 1969): Chuyến tàu trên sông Hồng, Vầng trăng thơ ấu, Chấp một tay, Người cha và người con, Lên mười, Người thầy học cũ, Người điên dưới chân sườn Tam Đảo, Những tấm hình của chị Thời, Những vì sao thứ nhất.
Mưa núi (Tân Văn, 1970): Tuyển những truyện ngắn trong hai cuốn: Đêm giã từ Hà nội (1955) và Tháng giêng cỏ non (1956): Lời vào tập, Đêm giã từ Hà Nội, Nhà mới, Mưa núi, Một chiều qua Cửu Long, Chiếc xe hàng cũ, Tháng giêng cỏ non, Người bạn đường, Giai đoạn chị Định, Đêm tân hôn.
Chân dung (Văn Khoa, 1985): Chân dung mười lăm nhà văn nhà thơ Việt Nam: Vũ Hoàng Chương, Thanh Nam, Bình Nguyên Lộc, Nhã Ca, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Mặc Đỗ, Nguyên Sa, Phạm Công Thiện, Nhật Tiến, Túy Hồng, Lê Tất Điều, Trùng Dương.
Ngọn hải đăng mù (Làng Văn, Toronto Canada, 1987): Ngọn hải đăng mù, Cánh tay dịu dàng một đất nước ở xa, Vệt son, Giữa hai cơn mưa, Thế giới của Kathy Graham, Sân khấu giữa rừng, Đêm Sydney, Người Hà Nội cuối cùng, Đêm sa mạc, Mộ thỏ, Tiếng gọi, Trên một chuyến bus, Thơm của nhành hương, Đáy năm, Một buổi sáng mùa đông ở Massachusetts.