Tôi được tin Tử mất có hơi muộn nên không ra đưa đám kịp. Mãi đến ngày lễ Phục Sinh (Pâques) năm 1941, tôi mới ra Qui Hòa viếng mộ Tử.
Khi chôn, gia đình Tử đã có ý chôn dưới gốc một cây phi lao để sau này dễ nhận. Nhưng sợ cây phi lao có ngày gãy mục, tôi rinh thêm một viên đá lớn chôn dưới chân mồ. Vì đời thường bể dâu, cẩn thận được chút nào hay chút nấy.
Anh Nguyễn Văn Xê gặp tôi, mừng rỡ lẫn buồn thương! Anh kể cho tôi nghe những gì đã xảy ra từ khi Tử vào bệnh viện. Và bà Phước săn sóc cho Tử trong những ngày tàn, an ủi tôi:
- Pierre Francois là người ngoan đạo, linh hồn chắc được về cùng Chúa. Tôi luôn luôn cầu nguyện cho Pierre.
Tôi hết sức cảm động và tự nhủ:
- Gần những tấm lòng vàng của bà Phước và anh Xê, Tử chắc khỏi bơ vơ trong những ngày xa nhà cách bạn.
Dòng lệ bỗng nhiên tuôn và long tôi trở nên êm dịu.
Nhân lúc tôi ra thăm mộ Tử, gia đình Tử theo ý muốn của Tử lúc sinh thời, làm giấy giao bản quyền những văn thơ của Tử cho tôi giữ. Tôi thâu thập tất cả những bút tích của Tử và nhũng thơ từ của Tử còn sót lại, đem hết về Nha Trang.
Lúc ấy tôi đã gặp Chế Lan Viên và đã trở nên đôi bạn thiết.
Chế Lan Viên cùng tôi xem xét và sắp xếp lại những bản thảo của Tử. Rồi tự tay tôi đánh máy mỗi tập văn thơ ra làm nhiều bổn, gởi ra nạp bản tại Bộ Quốc Gia Giáo Dục Huế, mỗi tác phẩm hai bổn theo thể lệ đương thời, và chia nhau giữ mỗi người một bộ.
Các bạn phương xa đến chơi cùng tôi, ai nấy cũng muốn xem bút tích của Tử. Nhưng ai nấy khi cầm đến cũng có ý ngại. Lòng e ngại làm thương tổn tình bạn thiêng liêng. Để giữ tình thiêng liêng được trăm phần trọn vẹn, tôi tìm cách sát trùng.
Không phải là việc dễ.
Tôi chợt nhớ đến viện Pasteur Nha Trang. Nhưng dễ gì mà nhờ được, trong khi mình không quen biết một Bác sỹ nào ở trong viện. Tôi đánh liều đến thẳng bàn giấy ông Giám đốc là ông Jacotot. Ông vồn vã đón tiếp. Sau khi nghe tôi trình bày mọi nỗi, ông cười:
Thi sĩ Quách Tấn
- Tuy tôi không đọc được thơ Hàn Mặc Tử, nhưng tôi đã được nghe nói đến danh nhà thi sỹ xấu số. Những bút tích của một nhà thơ như Hàn Mặc Tử thật quí báu vô ngần. Nhưng sanh mạng của con người cũng rất quí báu...
- Bởi vậy, tôi phải đến cầu cứu Bác sỹ.
- Tôi chưa nghĩ ra cách sát trùng thích ứng.
Dùng hơi nước thì mực phai lạt hết. Dùng hơi lửa thì giấy dòn nát hết. Tuy vậy, ông hãy gói tất cả các bản thảo cùng giấy tờ quan trọng cần sát trùng, bỏ vào một hộp bằng giấy bìa cứng, cột ràng kỹ lưỡng, rồi đem đến cho tôi. Tôi sẽ tìm cách giúp ông.
Tôi theo lời.
Ông hẹn tôi một tuần nhật đến xem kết quả.
Tuần sau tôi đến, ông sai bưng hộp tài liệu của Tử ra, mùi giấy sấy bay thơm phức. Ông cười:
- Bây giờ chúng ta có thể nhai nuốt từng búng cũng không sợ bẩn và sợ lây.
Tôi hết sức cảm kích và sắp ngỏ lời tạ ơn, thì ông cười, ngăn lại:
- Nét mặt ông đã nói cho tôi rõ hết nỗi lòng của ông rồi. Huống nữa đó là một việc chung cho văn hóa.
Mừng quá, không kịp hỏi thăm cách sát trùng của Bác sỹ Jacotot như sao, tôi vội ôm hộp tài liệu về nhà... Chế Lan Viên sung sướng như được của quí. Tôi thuật lại lời nói của Bác sỹ Jacotot, Chế Lan Viên nói:
- Mình không nhai nuốt giấy, mà mình nhai lại thơ Tử một vài lần nữa. Chúng ta phải lo cho Tử mới được. Chưa ai hiểu Tử một cách thấu đáo. Anh lo viết về thân thế. Tôi lo viết về văn chương. Lúc nào rồi thì rồi.
Nhưng trước khi bắt đầu vào việc, chúng tôi thương lượng cùng Cercle D'Etudes Qui Nhơn và Nha Trang, tổ chức hai buổi nói chuyện về Tử. Chế Lan Viên và tôi soạn bài cho giáo sư Nguyễn Đình thuyết trình. Thính giả khá đông và kết quả cũng có thể gọi là mỹ mãn.
Kế đó tôi được thư Trần Thanh Mại ở Huế gởi cho biết rằng cũng vừa tổ chức một cuộc diễn thuyết về Tử tại Huế và sắp viết một quyển sách nói về thân thế và sự nghiệp văn chương của Tử. Trần quân hỏi xin một ít tài liệu. Tôi mừng, bảo Chế Lan Viên:
- Như vầy là đã có người gánh dùm gánh nặng cho mình rồi đó. Tôi sẽ gởi hết những giấy tờ tôi thâu thập được ra cho Mại.
Chế Lan Viên gật đầu :
- Phê bình, khảo cứu không phải là công việc của bọn mình. Sợ không có người làm mình phải làm đó thôi. Phải để thì giờ lo sáng tác.
Kế đó chúng tôi đi Sàigòn. Gặp Trọng Miên, tôi nói chuyện Trần Thanh Mại. Trọng Miên cười một cách hóm hỉnh:
- Đó là một tay chuyên môn bán xương cốt!
Tôi chưa hiểu Miên muốn nói gì. Trông vẻ ngơ ngác của tôi, Miền vỗ vai, nói:
- Rồi anh sẽ hiểu.
Đoạn rủ Chế Lan Viên và tôi đến thăm Võ Doãn Mại là người sẽ đứng ra xuất bản tập sách của Trần Thanh Mại.
Võ quân tiếp đón chúng tôi rất niềm nở. Kịp đến giờ đi làm, chủ nhân cầm chúng tôi ở lại:
- Tôi qua ngang sở một tí rồi trở về ngay.
Ở nhà, Trọng Miên lục xấp giấy tờ của Võ quân để trên bàn giấy, lấy ra một bức thư đưa cho Chế Lan Viên và tôi:
- Đọc đi, các anh sẽ thấy mưu tâm của Thanh Mại.
Đó là một bức thư của Trần Thanh Mại viết cho Võ Doãn Mại bàn về việc viết và in sách về Hàn Mặc Tử. Đại khái rằng:
"Danh tiếng Hàn Mặc Tử đương nổi như phao. Cho sách ra đời lúc này là gãi nhằm chỗ ngứa của thiên hạ. Sách sẽ bán chạy như tôm tươi. Tôi cố gắng viết trong một tháng cho xong. Anh lo tài chánh cho sẵn. Sách ra sớm chừng nào có lợi chừng nấy".
Tôi nhìn Chế Lan Viên mà thở dài:
- Té ra Thanh Mại viết về Tử không phải vì nghĩa mà vì lợi!
Trọng Miên nói:
- Vì nghĩa? Khi chưa vào Qui Hòa, Tử có gởi ra cho Trần Thanh Mại một số thơ mới làm, nhờ Mại giới thiệu dùm. Mại đọc qua vài bài rồi vất cả vào sọt giấy và nói với một giọng khinh khi rằng "Thơ với thẩn!". Nay thấy Tử nổi tiếng, lại lo đầu cơ! Bán xương cốt Trần Kế Xương, Tuy Lý Vương xong, nay lo bán xương cốt Tử!
Tôi hiểu ý Trọng Miên.
Trọng Miên muốn nói rằng Trần Thanh Mại không hiểu thơ, không thể phát huy được tinh thần của các nhà thơ, của những bài thơ - nhất là thơ Hàn Mặc Tử - mà họ Trần đề cập.
Nhận thấy Trọng Miên nói đúng, tôi bỏ ý định giúp tài liệu cho Trần Thanh Mại.
Cách ít lâu, sách Hàn Mặc Tử của Trần Thanh Mại ra đời.
Sách họ Trần ra đời vào khoảng cuối năm 1941 đầu năm 1942.
Tác giả nhiệt liệt ca tụng thi tài Hàn Mặc Tử, và cuộc đời đau thương của Tử được trình bày một cách cảm động, khiến phần đông bạn đọc mủi lòng. Tôi cũng được tác giả tặng cho cái vinh hiệu là Mạnh Thường Quân và dành riêng cho một đoạn trong sách.
Tuy thế quyển sách chẳng những không gây thiện cảm trong hàng thân yêu của Tử, mà còn khiến cho gia đình Tử và một số thân bằng cố hữu của Tử bất bình.
Vì sao vậy?
Vì trong sách:
- Có nhiều điểm không đúng sự thật do tác giả, hoặc nghiên cứu không kỹ càng, hoặc cố ý xuyên tạc hay phóng đại.
- Có nhiều văn thơ chưa xuất bản của Tử bị trích dẫn toàn thiên mà không được sự ưng thuận của người giữ bản quyền hoặc gia đình Tử.
Những điểm thất thiệt trong sách không làm thiệt hại đến đời văn chương và sự nghiệp văn chương của Tử. Chúng chỉ phạm đến danh dự hoặc chạm lòng tự ái của một số người còn sống, kẻ ít, người nhiều, đó thôi.
Phản ứng của mỗi người mỗi khác.
Những bạn tôi quen thân như Chế Lan Viên, Trọng Miên thì nhìn nhau, nhún vai, cười ngạo nghễ:
- Miễn phê bình.
Trần Tái Phùng - cháu gọi Trần Thanh Mại bằng chú - xé nát quyển sách ném vào giỏ giấy.
Tôi cố giữ thái độ bình tĩnh. Có đôi bạn ngờ rằng tôi thỏa mãn lắm vì được "đề cao". Tôi chỉ cười, không cải chính.
Bổn phận của tôi, đối với Hàn Mặc Tử, là giữ gìn sự nghiệp văn chương của Tử, đừng cho những kẻ bất lương xâm phạm, và đừng cho thất lạc.
Tuy vậy, tôi coi mẹ Tử như mẹ tôi, và các người em Tử lúc bấy giờ kính nể tôi như anh ruột, nên những lời nói của họ Trần động chạm đến thanh danh gia đình Tử, làm cho tôi khó chịu vô cùng, nhất là đoạn nói về trường hợp sanh ra Tử.
Họ Trần nói rằng: "Cách vài tuần trước ngày bà nằm nơi, nhà đoan bắt được mấy đám rượu lậu to, nên trong nhà ông Nguyễn Văn Toản phải cất tạm không biết bao nhiêu là vò thứ rượu hảo hạng ấy. Cả nhà từ chủ nhân cho đến đầy tớ tha hồ múc uống, uống lấy vui, uống để mà cười.
Bà Nguyễn Thị Duy vì thế mà cũng say lướt khướt. Đến ngày 22 Septembre bà ở cữ. Bà mụ bảo là bà sanh thiếu tháng. Bà cũng tin và hối hận vì mình đã uống rượu. Dẫu sao, đứa bé ra chỉ bằng con nhái chàng, nằm lỏng lẻo trong lòng bàn tay một người lớn. Hình thù nó khó trông đến nỗi làm cho ai nấy cũng phải kinh dị, và lo sợ không thể nuôi sống nổi".
Tôi hết sức ngạc nhiên :
Ông cụ thân sinh Tử vốn là một công chức có tiếng là "ngồi trên nguyên tắc", không lý gì lại để cho người nhà để tay vào những tang vật của Nhà Đoan (Douane). Còn bà cụ thân sinh Tử là một nội tướng con dòng thi lễ, có lẽ nào lại đi mua vui trong việc "say sưa lướt khướt", như thế kia?
Hàn Mặc Tử coi tôi như ruột thịt, không có việc gì, cũ cũng như mới, lớn cũng như nhỏ, xấu cũng như tốt, mà Tử dấu tôi. Nhưng tôi chưa hề nghe nói đến việc bà cụ vì uống rượu lậu mà sanh Tử thiếu tháng.
Để cho chắc chân tôi đến hỏi thăm bà cụ. Bà đáp:
- Bác có nói gì với ông Trần Thanh Mại đâu! Khi ông ấy nhắc đến Trí thì lòng bác đau đớn quá, bác chỉ trả lời qua loa rồi nước mắt nghẹn cả lời... Ông ấy xưng là bạn của Trí, thì bác cũng hay vậy chớ lúc sinh thời bác không hề nghe Trí nói đến. Vì thế đối với ông ấy bác cũng có phần dè dặt, mặc dù biết rằng ông đến thăm bác với hảo tâm. Không ngờ ông ấy sao lại ác thế?
Tôi đề nghị bà cụ viết bài phản đối. Bà buồn bã khuyên:
- Thôi con. Em con đã qua đời rồi, để cho nó yên. Nói qua nói lại làm gì cho thêm tủi.
Lời nói nhân hậu làm sao!
Tôi cảm động hết sức, ứa lệ xin vâng lời.
Nhưng khi nói chuyện cùng chị Như Lễ tôi lại lén bảo riêng chị nên cải chính. Chị bảo sẽ cải chính luôn những điểm thất thiệt khác, như việc "cô Lê Thị Mai nuôi Tử", việc "bỏ không ngó ngàng đến Tử từ lúc Tử vào Qui Hòa và sau khi Tử mất", v.v...
Như thế là việc "trong gia đình" Tử đã có người lo. Tôi chỉ còn lo đến những gì liên quan đến sự nghiệp văn chương của Tử.
Tôi viết thư ra trách Trần Thanh Mại đã trích quá nhiều thơ của Tử mà không thương lượng trước với tôi, là người giữ bản quyền, và yêu cầu họ Trần trả tiền nhuận bút các bài thơ trích cho gia đình Tử. Họ Trần chẳng những không nhìn nhận chỗ sơ sót của mình mà còn nói nhiều lời khiếm nhã.
Tôi bàn cùng Chế Lan Viên:
- Đối với những người không biết phục thiện như họ Trần thì chỉ có Pháp luật mới có thể buộc họ theo lẽ phải.
Chế Lan Viên đồng ý, nhưng không tin tưởng Tòa Án Nam Triều có thể giải quyết vấn đề được thỏa đáng.
Lúc bấy giờ đã ban hành ở Trung Việt, Dụ số 9 ngày 24.3.41 của vua Bảo Đại, minh định quyền sở hữu trên các tác phẩm văn chương và mỹ thuật.
Điều 8 của Dụ nói rằng:
"Toute édition ou production destinée au puplic d'une oeuvre littéraire ou artistique, écrit, peinture, dessin, carte ou plan photographie ou film cinématographique, composition musicale ou disque de phonographe, tirée de mauvaise foi, au mépris des droits des auteurs, ou de leurs héritiers et cessisonnaires, est une contrefacon, et la contrefacon est un délit".
Nghĩa là :
"Mọi sự xuất bản hay sản xuất cho công chúng, một tác phẩm văn chương hay mỹ thuật, văn thi phẩm, họa phẩm, họa bản, họa đồ hay đồ bản, ảnh, phim ảnh, nhạc phẩm hay dĩa hát, thực hiện với gian ý, bất chấp quyền lợi của tác giả hoặc những người thừa kế hay thụ nhượng, là một sự giả mạo, và sự giả mạo là một tội về tiểu hình".
Trường hợp của Trần Thanh Mại "trích quá nhiều thơ văn chưa xuất bản của Tử mà không xin phép người giữ bản quyền" có nằm vào điều 8 của Dụ số 9 của Bảo Đại chăng?
Tôi đem vấn đề ra thảo luận cùng ông Agostini, một luật khoa tấn sỹ, làm Phó sứ kiêm Thẩm phán Tòa án Pháp ở Nha Trang là nơi tôi đương tòng sự. Ông Agostini nói:
- Sách của Trần Thanh Mại là một quyển sách phê bình, nếu tôi không lầm. Mà nhà phê bình có quyền trích thơ văn của thi văn nhân để dẫn chứng.
Tôi cãi:
- Sách của họ Trần có tánh cách một quyển truyện ký hơn là quyển văn phê bình. Huống nữa nhà phê bình chỉ phê bình những tác phẩm đã xuất bản.
- Tuy vậy họ Trần không có gian ý, và không làm thiệt hại chi đến Hàn Mặc Tử. Điều 8 của Dụ Bảo Đại chỉ áp dụng cho những người đạo văn hay ấn hành trộm lén tác phẩm của người khác.
- Ở Âu Châu đã có xử vụ án nào về việc trích văn thơ chưa xuất bản chăng?
- Khi Paul Verlaine mới tạ thế, có một nhà phê bình viết về nhà thi sỹ quá cố, cũng trích nhiều văn thơ chưa hành thế của Verlaine. Bà quả phụ Verlaine đưa đơn kiện nhà phê bình. Việc chưa xét xử thì hai bên nguyên, bị điều định với nhau và đi đến hòa giải. Đó là vụ kiện duy nhất về ván chương mà chưa được xử, từ xưa đến nay ở nước Pháp.
- Nếu ông đứng xử vụ Trần Thanh Mại thì ông xử thế nào.
Ông Agostini cười:
- Tôi sẽ cho ông Mại được miễn tố. Những văn thơ của Hàn Mặc Tử mà ông Mại trích đó tuy nhiều thật, song đối với sự nghiệp văn chương của thi sỹ để lại có thấm gì. Như vậy, theo tôi, ông Mại có làm thiệt hại gì cho thi sỹ đâu. Trái lại ông ấy còn có công làm quảng cáo cho Hàn Mặc Tử là khác.
- Nhưng ông ấy nhờ Hàn Mặc Tử mà viết được sách để bán lấy tiền, thì ông ấy phải chia số tiền thu được cho gia đình Hàn Mặc Tử với chứ.
- Không có luật nào bắt buộc cả, thì Tòa án biết dựa vào đâu mà thỏa mãn sự đòi hỏi của anh?
Đó là ý kiến của quan Tòa Pháp.
Tôi đến tìm cụ Hoàng Yến, tuần vũ tỉnh Khánh Hòa, là người rất có biệt nhãn đối với khách làng thơ. Tôi trình bày sự việc. Cự nói:
- Trích thơ văn chưa hành thế của người ta nhiều thế ấy mà không chịu thương lượng trước, như vậy không thể bảo là "không có gian ý" được. Còn bảo rằng Hàn Mặc Tử được họ Trần quảng cáo cho, thì tôi không cho là phải. Vì nếu quả vì mỹ ý mà "quảng cáo dùm" thì sao lúc thi sỹ còn sống lại không "dùm" cho, mặc dù có lời sở cậy. Nếu tôi đứng xử việc này thì nhất định tôi buộc ông Mại phải trả tiền nhuận bút về những bài thơ bài văn đã trích dẫn.
Hai ý kiến khác nhau. ông Agostini dựa theo luật lệ Cụ Hoàng Yến dựa trên công lý.
Sau khi thảo luận cùng Chế Lan Viên một lần nữa, tôi quyết định đưa vụ này ra Tòa Án Phủ Doãn Thừa Thiên ở Huế, là nơi ông Trần Thanh Mại cư trú và sách Hàn Mặc Tử phát hành. Tôi bàn cùng Chế Lan Viên:
- Xưa nay ở nước ta chưa có vụ án văn chương nào, nay mình thử gây ra một án lệ, thua hay được chả cần.
- Đó cũng là một cách quảng cáo thêm cho Tử.
Thế là chúng tôi, một mặt thảo đơn gởi ra Huế, một mặt tin cho gia đình cùng các bạn thân của Tử biết rõ công việc để chuẩn bị ra Tòa làm chứng khi cần.
Biết tin tôi đưa đơn kiện, Trần Thanh Mại nổi lôi đình, viết bài đăng báo Tràng An Huế, công kích tôi kịch liệt.
Bị đánh lẽ tất nhiên phải đỡ.
Thế là cuộc bút chiến giữa Trần Thanh Mại và tôi nổi lên và kéo dài ngót mấy tháng.
Tràng An là một tơ báo được Chánh phủ Pháp phụ cấp và do nhà doanh nghiệp Bùi Huy Tín chủ trương. Vì có thế Chánh phủ Pháp, tờ báo không được quốc dân ủng hộ. Nhưng vì họ Trần đăng bài ở đó, tôi không tiện đăng bài của tôi ở báo khác. Tuy vậy cuộc bút chiến vẫn làm sôi nổi dư luận, mặc dù lúc bấy giờ đệ nhị thế chiến đương nổ dữ dội, tin tức dập dồn. Bạn đọc chia làm hai phái, phái bênh vực họ Trần, phái bênh vực tôi, ý kiến bất nhất. Kẻ khen, người chê, bàn bàn, tán tán, kể cũng thật là vui.
Nhưng rồi, thấy cuộc "cãi lộn" không đi đến đâu, và nghe tiếng chì tiếng bấc lâu ngày, khách bàng quan đã bắt đầu "ngấy" tôi bèn dừng bút. Họ Trần nói thêm mấy kỳ báo nữa, nhưng thấy nói một mình, buồn, cũng phải nén lòng nín tiếng, chấm dứt cuộc tranh đua để chờ kết quả tòa án.
Tôi đầu đơn kiện lúc mùa xuân năm 1942 và đến mùa thu năm ấy, vụ kiện mới đem ra xét xử.
Vì ở xa và mắc công vụ tôi không có mặt trong phiên Toa.
Một người bạn quen ỏ Huế vào cho biết kết quả.
Theo lời người bạn thì bữa ấy bên nguyên chỉ có ông Nguyễn Bá Hiếu, đại diện gia đình Hàn Mặc Tử, đến dự. Còn bên bị thì có đủ bị cáo và chứng nhân. Người đến xem đông đầy cả tòa án. Cụ Trương Xuân Mai, Phủ doãn, ngồi ghế Chánh Án. Nhà văn Nguyễn Tiến Lãng, Phủ thừa, ngồi ghế phụ thẩm. Nhưng ông Chánh Án bảo rằng "vụ này là một vụ án văn chương mà bên nguyên bên bị đều là hai nhà văn có tên tuổi", nên ông "nhường lời phán xét cho ông phụ thẩm là một nhà văn cũng có tiếng đương thời".
Ông Nguyễn Tiến Lãng với quyển "Hàn Mạc Tử" của Trần Thanh Mại trên tay, đã cho mọi người thấy rõ rằng số trang in những văn thơ của Hàn Mặc Tử gần bằng số trang in những lời trình bày của họ Trần: Trích thơ văn của người nhiều như thế mà không xin phép là có tội. Nhưng ông lại nói rằng họ Trần đã giới thiệu Hàn Mặc Tử một cách nồng hậu, nhờ vậy mà được nhiều người biết đến tài nghệ của Tử. Như thế là họ Trần có công đối với người có ván thơ bị trích.
Sau khi nghe ông phụ thẩm phán xét, ông Chánh Án kết luận rằng
- Đây là lần đầu tiên, Toà án Nam Triều thọ lý một vụ kiện về văn chương. Nhưng vụ này lại ở trong một trường hợp đặc biệt: Bị cáo có tội mà cũng có công, và công suy ra lại ngang với tội! Song đó là lấy ý riêng mà xét, chớ chưa có luật, cũng chưa có lệ minh định lẽ thiệt hơn. Vì vậy Tòa tuyên bố: Miễn Xử.
Vụ án này hình không ra hình, hộ không ra hộ, xử không ra xử, không không ra không, cho nên kết quả không thành được án lệ.
Tuy thế vẫn có lợi.
Vì Hàn Mặc Tử được thêm một tiếng vang.
Và sau đó, các nhà phê bình không còn xem thường quyền sở hữu của tác giả hoặc của những người thừa kế, trên những tác phẩm họ trích dẫn. Hoài Thanh viết quyển Thi Nhân Việt Nam năm 1942, Vũ Ngọc Phan viết bộ Nhà Văn Hiện Đại năm 1943, đều có thư thương lượng cùng tôi về việc trích thơ Tử.
Năm 1945, Nha Trang bị tàu bay khủng bố dữ dội. Tôi phải đem vợ con về Bình Định lánh nạn.
Ở Nha Trang tôi có một ngôi nhà ngói nho nhỏ. Các bạn thân yêu đều dùng làm nơi tụ họp và tàng trữ sách quí cùng bản thảo văn thơ.
Sự nghiệp văn chương của Tử cũng để tại đó.
Khi ra đi tôi khóa chặt tủ, đóng kỹ cửa, và gởi nhà cho người tin cậy là ông Ba Lồ Ô. Vì xe cộ chật chội, đường sá khó khăn, gia đình tôi chỉ mang theo được một ít đồ tế nhuyễn. Thêm nữa, Bình Định tuy là quê hương, nhưng tôi không còn có tài sản ở đó. Tôi định về gởi vợ con cho ông nhạc bà nhạc, rồi một mình trở vào Nha Trang cùng Chế Lan Viên.
Nhưng rồi binh lửa dập dồn, đường giao thông bị cắt đứt. Tôi bị kẹt ở Bình Định, sự nghiệp về tinh thần cũng như vật chất đều bỏ ở Nha Trang.
Thời loạn lạc - nhất là dưới thời Việt Minh nắm Chánh quyền - mạng người như giọt sương thu trên đọt cỏ. Bè bạn như lá rụng, mỗi người cui cút mỗi nơi. Tên Hàn Mặc Tử không còn nghe ai nhắc đến! Tôi cũng không có dịp nào nhắc đến để người nghe.
Riêng Mai Đình, để chiêu niệm Tử, có bài Trăng Cũ, rằng:
Trăng cũ giờ đây vẫn sáng trong,
Người mùa xuân cũ cách muôn trùng!
Ai về thăm thẳm trời tinh tú,
Để lại trần gian bóng lạnh lùng!
Từng tập thơ xưa! Từng tập thơ!
Từng trang huyết lệ ngấn trăng mờ.
Hồn ai siêu thoát ngoài nhân thế
Có biết rằng em vẫn đợi chờ?
Trên cõi Thiên đàng ngát ánh sao,
Tình anh tỏa rộng bốn trời cao,
Phiêu diêu anh sống bên mình Chúa,
Dựng một đài thơ ở chốn nào?
Em mãi phiêu linh với bụi đời,
Ngại ngùng mưa gió lúc buồn vui.
Từng đêm trăng sáng, đêm trăng sáng
Biết mấy đau thương, mấy ngậm ngùi!
Cũng muốn theo anh dứt nợ trần,
Đập tan lưu luyến, thoát phàm thân,
Bay qua muôn vạn tầng thanh khí,
Hồn quyết tìm cho thấy cố nhân.
Chút nợ ân tình giả chửa xong,
Đành mang tâm sụ mãi bên lòng.
Sắt son đã chẳng cùng nhau vẹn.
Em phải đem mình gởi núi sông.
Em đã là dân của nước nhà,
Khi quân thù đích dấy can qua.
Máu hồng đương nhuộm trang hùng sử
Em nhẽ nào quên nghĩa quốc gia.
Hăng hái xông pha giũa cuộc đời,
Chút lòng tranh đấu phút nào nguôi.
Bao giờ Tổ quốc ca toàn thắng,
Là lúc tìm anh giũa cõi Trời.
Em chỉ cầu xin một buổi chiều,
Dưới bàn tay Chúa, cạnh người yêu,
Ta tung thơ khắp cho trần thế...
Lạy Chúa đời con khổ đã nhiều.
Lời thơ chân thành, ý thơ nồng hậu. Đọc thơ lòng tôi luống thẹn cùng Mai Đình! Mối tình thâm thiết đối với Tử, ngoài Mai Đình còn có ai?
Trong thời kháng chiến, tâm não con người không mấy lúc thảnh thơi, và cảnh loạn lạc khiến lòng ngươi thâu hẹp lại, ai lo phần nấy, không mấy ai nghĩ đến ai. Tuy vậy những đêm yên ổn, một mình nằm ôn lại quãng đời qua, bâng khuâng kẻ mất người còn, lắm khi nghĩ thương Tử quá!
Mồ mả Tử ở Qui Hòa không biết có ai coi ngó?
Thơ văn Tử bỏ ở Nha Trang không biết mất hay còn?
Biển cách non ngăn, lấy ai dò tin tức!
Mùa đông năm 1954, sau ngày ký Hiệp định Genève, tôi huề quyến vào Nha Trang.
Vườn cũ còn y. Gốc mận ba cành vẫn xanh tốt. Ngôi nhà nhỏ chỉ hư hỏng sơ sơ. Nhưng đồ đạc trong nhà cùng sách vở giấy má không còn một mảy! Hỏi thăm ông lão láng giềng, ông đáp:
- Nhật lật Pháp, Nha Trang bình an. Việt Minh cướp chánh quyền, Nha Trang cũng không lấy gì làm chộn rộn. Nhà anh vẫn đóng kín cửa và ông Ba Lồ Ô vẫn ngày ngày rượu say nằm hát nghêu dưới bóng mận... Nhưng rồi Pháp đổ bộ lên Nha Trang, giặc giã nổi dậy. Đồng bào, ai theo Việt Mình thì bị Pháp khủng bố, ai theo Pháp thì bị Việt Minh khủng bố, án không yên, ngủ không yên!
Phần đông người ở đây đều bỏ nhà bỏ cửa, chạy tản cư hết. Ông Ba Lồ Ô theo con chạy về Huế và mất ở đó. Tôi lên nhà quê ở cùng lũ cháu, thỉnh thoảng lén về thăm nhà. Nhà ai cũng vậy, không ngươi coi ngó, đồ đạc bị bọn Việt gian lấy sạch. Về phần anh, thì chúng chỉ khiêng bàn, ghế, giường, tủ. Còn sách vở, giấy má thì chúng vất bỏ lại, không ai thèm lấy, gió bay trắng cả trong ngoài...
Thế là tất cả sản nghiệp tinh thần của bạn của mình đều bị hủy hoại hết! Thật đau đớn quá!
Thấy tôi buồn, ông lão an ủi:
- Trong thời ly loạn giữ được tấm thân cũng đã quá sức khó, huống hồ những vật ngoài thân.
Đã biết vậy, song không thể dựa vào hoàn cảnh để trút trách nhiệm của mình.
Sản nghiệp tinh thần bị hủy hoại thật là to tát. Nhưng đối với di tích của Tản Đà, Bích Khê..., tôi chỉ thương tiếc mà thôi. Còn đối với những di cảo của Hàn Mặc Tử, tôi có bổn phận phải gìn giữ, mà không gìn giữ được, lòng tôi bứt rứt không yên! Đối với bạn, đối với nền văn học nước nhà, tội tôi không phải nhỏ!
Nhân soạn các giấy tờ về ngôi nhà ở Nha Tang, tôi tìm thấy tờ biên lai của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Huế nhận những thi phẩm của Hàn Mặc Tử mà tôi gởi ra nạp bản ngày trước. Tôi mừng quá, định viết thư vào Sài gòn, xin Bộ Giáo Dục cho tôi xin bản sao các tập thơ của Tử. Nhưng một ông bạn đã sống trong vùng Quốc gia suốt thời khói lửa, bảo tôi:
- Sách vơ, giấy tờ lưu trữ ở Thư Viện Bảo Đại và ở các Bộ tại cựu Thần Kinh lớp thì bị Việt Minh đốt, lớp thì bị trận lụt năm 1951 trôi, lớp bị thất lạc vì tản cư... Các tập thơ của Tử làm gì còn mà hỏi. Huống hồ Bộ Quốc Gia Giáo Dục trước kia và Bộ Quốc Gia Giáo Dục ngày nay đâu phải là một. Anh viết thư chỉ mất công và tốn tiền tem vô ích mà thôi.
Gặp lại mấy ông bạn cũ Trọng Miên, Hoàng Diệp, Nguyễn Tuân, Ái Mỹ..., tôi hỏi thăm có giữ được gì của Tử chăng, thì ai nấy đều thở dài:
- Tấm thân còn sống sót, tưởng cũng đã may lắm rồi!
Năm 1957, tôi đổi ra Huế. Nhân ngày kỷ niệm Tử do anh em văn nghệ sỹ Thần Kinh tổ chức, tôi có trình bày việc tôi để mất các di cảo của Tử và thành thật nhận lỗi trước anh em. Anh Hoàng Diệp cho biết:
- Nghe nói anh Trần Tái Phùng còn giữ đủ các tác phẩm của Tử. Anh thử hỏi xem...
Tôi tìm đến Trần Tái Phùng. Trần quân cho biết chỉ thiếu có tập Gái Quê và Lệ Thanh Thi Tập.
Tôi xin sao lại các tập kia. Trần quân hứa sẽ thỏa mãn. Song ngày qua, tháng qua và năm qua, chữ sẽ vẫn còn y nguyên chữ sẽ. Tuy vậy tôi vẫn được yên tâm, vì biết rằng không kíp thời chây, thế nào Trần quân cũng cho sách ra đời, chớ chẳng lẽ lại ôm đi tìm Tử nơi U huyền để giao trả lại.
Riêng tiếc những bức thư Tử gởi cho tôi trong 10 năm thân thiết! Có trên năm sáu trăm bức, vì mỗi tuần chúng tôi gởi cho nhau ít ra cũng một bức. Khi thì bàn chuyện văn chương, khi thì kể niềm tâm sự ...
Tất cả những gì xảy ra hằng ngày về chúng tôi, về thiên hạ mà chúng tôi để ý đến, dù là những việc "không mấy nên thơ" chúng tôi cũng đều "phúc trình" cho nhau biết.
Nhưng năm 1939, gặp gỡ Liên Tâm là một bạn gái mộ văn chương, tôi lại dấu Tử, vì có cảm giác sờ sợ như một anh chồng ngoại tình đi chơi về khuya. Sau Tử dò biết, gởi vào một bài thơ trách rằng:
Trường Xuyên ơi! Trường Xuyên ơi!
Viết chẳng nên câu nói nghẹn lời.
Mây nước bao la tình lẳng lặng,
Khói sương mờ mịt nhớ chơi vơi.
Tương tư mộng thấy năm canh mộng,
Luyến ái trời vương bốn phía trời.
Ta nhớ ta thương, mình tệ quá!
Có ai khăng khít lại quên ai!
Tôi viết thư ra phân trần và chép cho Tử xem bài thơ "Sợi Tơ Mành", Liên Tâm tặng tôi:
Thành xa mấy bận trống sang canh,
Thổn thức mình riêng cảm phận mình.
Cao cả chưa đền ơn chín chữ,
Nặng nề thêm ngán nợ ba sinh!
Chòm hoa dưới nguyệt so le bóng,
Tiếng hát bên sông bận bịu tình.
Nhện báo tin gì sa trước mặt?
Gió đưa lăng líu sợi tơ mành.
Xem thơ cảm động, Tử viết thư vào "xá tội chúng sinh". Trong thư có câu:
Lòng riêng riêng cũng kính yêu
Người thương thương lắm phải chìu người thương.
Trong những bức thư của Tử thường có những vần thơ đẹp như thế. Nhưng Tử không đem vào các tập thơ.
Ngoài những vần thơ đẹp, ngoài những nỗi niềm tâm sự, trong các thư còn nhiều mẫu chuyện nói rõ những trường hợp sáng tác của một số thơ Tử, còn nhiều ý kiến về Thơ... Đó là những tài liệu có thể giúp cho các nhà phê bình khám phá được nhiều bí ẩn trong thơ và trong tâm hồn Tử.
Những tập thơ của Tử còn mong có ngày ra đời, đến những bức thư kia đã mất rồi, tất nhiên là mất hẳn!
Thật đáng tiếc biết bao nhiêu !
Đó là về phần văn chương. Còn về phần thân xác?