2003 | VĂN HỌC

Bui Giang và nỗi lòng Tô Vũ

  PHẠM XUÂN ĐÀI

Tôi đọc bài thơ Nỗi Lòng Tô Vũ của Bùi Giáng lần đầu tiên vào thập niên 50, trên tờ Phổ Thông do ông Vũ Quốc Thúc chủ trương, xuất bản tại Hà Nội trước cuộc di cư năm 1954. Tuổi học sinh, đọc là tôi mê bài ấy ngay, nỗi mê gần giống như khi đọc Les Étoiles của Alphonse Daudet, có lẽ với nhiều cảm động hơn. Một bên là chàng chăn dê giữa rừng núi với tình yêu bầy dê của mình, một bên là chàng chăn cừu với mối tình chớm nở với cô con gái ông chủ.


Tuổi thanh thiếu niên dễ "bắt" những rung động ấy lắm. Và tôi không ngờ "mối tình" của tôi với Nỗi Lòng Tô Vũ của Bùi Giáng lại dai dẳng đến thế, sau này tôi đã đọc nhiều thơ, văn của anh, đã quen biết anh, nhưng hình ảnh chàng chăn dê trên núi trong một buổi chiều "ước thệ" với những vòng đeo cổ dê và cổ chính mình vẫn ở mãi trong lòng tôi như một vùng trong sáng thuộc vào tuổi trẻ. Tuổi trẻ của tác giả, và sau đấy, của tôi.


Chúng ta hãy cùng đọc lại bài thơ:


Nỗi Lòng Tô Vũ

 Kỷ niệm một đoạn đời 15 năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt Nam Ngãi Bình Phú

Đồi tăm tắp chạy về ôm chân núi

San sát đồi phủ phục quấn núi xanh

Chiều xuống rồi tơ lòng rộn ràng rối

Trời núi đồi ngây ngất nhảy dê nhanh


Thôi từ nay tha hồ em mặc sức

Nhảy múa tung sườn núi vút giòng khe

Thôi từ nay tha hồ em mặc sức

Vang vang lên đồi núi giọng be be


Những bận nào Trà Linh qua Đá Dừng Hòn Dựng

Dùi Chiêng về Phường Rạnh ngược Khe Rinh

Bao lần anh cùng chúng em lận đận

Bôn ba qua rú rậm luống rùng mình


Những bận nào Quế Sơn Rù Rì con suối ngược

Nước trôi nguồn nước lũ xuống phăng phăng

Những bận nào mịt mùng mưa gió ướt

Đẫm thân mình co rúm lạnh như băng


Em nhớ hay không? hồn hoa dại cỏ

Những ngậm ngùi đầu núi canh khuya

Vàng cao gót nai đầu truông hãi sợ

Gió cây rung trút lá mộng tan lìa


Nhưng từ nay Giáp Nam anh đóng trại

Cố định rồi - em khỏi ngại ngày đêm

Dưới nắng mưa tha phương du mục mãi

Cay đắng từng, bùi ngọt mặn mà thêm


Chiều hôm nay bên chó vàng chễm chện

Anh lặng nghe em bé hé bên sườn đồi

Khoanh mấy vòng tay anh thoăn thoắt bện

Vòng cho em từng chiếc sắp xong rồi


Chiều đã xuống em đà no nê chắc

Huýt tù và! em xúm xít lại anh đeo cho

Mỗi chúng em mỗi vòng mây mỗi sắc

Lại mau đây! to nhỏ cổ anh so


Này em Đen chiếc vòng vàng tươi lắm

Này em Vàng chiếc trắng há mờ đâu

Này em Trắng chiếc hồng càng lóng lánh

Này em Hoa Cà * hỡi! chiếc nâu


Ngẩng đầu lên! dê ơi anh thong thả

Đeo vòng vào em nghển cổ cong xinh

Ngẩng đầu lên! đây lòng anh vàng đá

Gửi gắm vào vòng mây nhuộm tơ duyên


Ngẩng đầu lên nhìn anh mờ mắt lệ

Từ lần đầu vòng ngọc tuổi hai mươi

Trao người em trăm năm lời ước thệ

Đây lần đầu cảm động nhất mà thôi **


Vòng em xong, vòng anh dành riêng chiếc

Dành riêng mình - Dê hỡi hiểu vì sao ?

Vì lòng anh luống âm thầm tha thiết

Gán đời mình trọn kiếp với Dê Sao


Nhìn anh đây các em Vàng Đen Trắng

Tía Hoa Cà lổ đổ thấu lòng chưa ?

Từ từ đưa chiếc vòng lên thủng thẳng

Anh từ từ đưa xuống cổ đong đưa


Và giờ đây một lời thề đã thốt

Nghìn thu sau đồi núi chứng cho ta

Cao lời ca bê hê em cùng thốt

Hòa cùng lời anh nghẹn nỗi thiết tha


Và giờ đây hoàng hôn mờ chĩu nặng

Bốn bề tràn lan bóng mịt mùng sa

Xếp hàng ngay nhanh lên hàng ngũ thẳng

Rập ràng về bế hế rập ràng ca


*


Một bài thơ cảm động mô tả việc chăn dê ở vùng đồi núi Quảng Nam và tình yêu bầy dê của tác giả, với các hình ảnh vô cùng nên thơ. Nhưng cầu đề từ ở đầu bài: Kỷ niệm một đoạn đời 15 năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt - Nam Ngãi Bình Phú gây thắc mắc cho nhiều người, trong đó có tôi. Trong những dịp gặp Bùi Giáng trước năm 1975 và gần đây, đầu thập niên 90, tôi đếu quên nhờ anh giải thích những điều rõ ràng là nói quá lên: về thời gian, không làm có chuyện Bùi Giáng đi chăn dê trong 15 năm, về không gian thì cả vùng núi đồi Nam Ngãi Bình Phú là quá lớn đối với địa bàn chăn dê thật của nhà thi sĩ. Bây giờ tôi đành tìm cách giải thích câu ấy một mình vậy.


Công việc chăn dê của Bùi Giáng chỉ có vào một thời gian ngắn tại núi đồi huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam, trong khoảng từ 1945 đến 1952 là năm anh "nhảy đồn" để về thành phố. Câu đề từ trên về thời gian và không gian đều được nới dài và rộng ra, để nhằm gợi một cái gì đấy nhiều hơn là để tường trình một giai đoạn của đời tác giả. "Mười lăm năm" có lẽ được mượn từ đoạn đời trôi nổi của nàng Kiều, một khoảng thời gian trở thành chuẩn mực để chỉ nỗi trắc trở lênh đênh; trong giới văn học, "mười lăm năm lưu lạc" gần như thành một thành ngữ. Và miền núi đồi bốn tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên gợi nên cái không gian Liên khu Năm trong thời kháng chiến chống Pháp mà Bùi Giáng đã đi lại nhiều lần.


Thời gian ấy, không gian ấy sẽ hỗ trợ cho không khí và nỗi lòng của chàng Tô Vũ mới, và làm cho mối tình của chàng với bầy dê thấm đượm một màu sắc riêng. Mười lăm năm nói lên một nỗi truân chuyên, mượn số năm lưu lạc của nàng Kiều để chỉ một thời gian ngắn hơn nhiều của đời mình, Bùi Giáng có lẽ đã có tiên cảm về nỗi bất trắc lớn lao của dân tộc trong vòng vây không thoát được của chủ nghĩa cộng sản. Và núi rừng Nam Ngãi Bình Phú là một không gian đặc biệt của thời ấy, lúc phá hết phố phường biệt ly đời gấm hoa, đời sống cả một vùng giai đoạn đầu kháng chiến nhuốm đầy vẻ tươi sáng hào hùng dù rất kham khổ thô sơ, nhưng từ đầu thập niên 50 bắt đầu xuất hiện các vệt đen của đấu tranh giai cấp và việc ép buộc đổ vào một khuôn tất cả mọi sinh hoạt tinh thần, tư tưởng - cái khuôn mác xít.


Nỗi lòng Tô Vũ là nỗi lòng của kẻ lưu đày. Tô Vũ là một nhân vật bên Tàu thời Hán Vũ Đế, khi đi sứ sang Hung Nô đã bị nước này giữ lại, bắt đi chăn dê trong 19 năm, gọi là Tô Vũ Mục Dương. Bùi Giáng học ở kinh đô Huế, năm 1945 ở vào tuổi 19, đầu óc đang tiong cơn khao khát rộng mở đến bao chân trời kiến thức, thì vì thời cuộc phải ngưng học đột ngột, về sống với xóm làng rừng núi quê nhà. Nhưng điều quan trọng là khi cuộc kháng chiến bùng nổ, vùng Nam Ngãi Bình Phú thành biệt lập với thế giới bên ngoài. Một đời sống hoàn toàn tự cấp tự túc, kể cả và nhất là về học thuật, văn hóa, tư tưởng.


Thời ấy nền giáo dục của cả Khu Năm chỉ đến hết bậc trung học, muốn học đại học phải ra đến Khu Bốn mới có. Năm 1950 Bùi Giáng thử thời vận một lần với việc học vấn, lên đường đi học theo dãy Trường Sơn ra đến Hà Tĩnh để theo học đại học tại đấy. Nhưng ngay trong buổi khai giảng, sau khi nghe diễn văn của ông Viện trưởng thì Bùi Giáng quyết định bỏ về không học nữa. Bài diễn văn ấy có lẽ đã bắt đầu có dấu hiệu của sự nô dịch dân tộc bằng hệ ý thức mác xít. Bùi Giáng thất vọng. Các dự cảm đang biến thành sự thật.


Sau đó ông chỉ còn một con đường là tự biến mình thành Tô Vũ. Đó là sự tự lưu đày trên quê hương, với ý thức rất rõ rằng tư tưởng của mình, đời sống trí tuệ của mình đang bắt đầu bị vây khốn. Cuộc đời chăn dê và hình ảnh bầy dê chỉ là lối thoát mặt nổi của riêng một người, trong một thời mà bao nhiêu dáng vẻ phong phú bay bổng của tinh thần đang dần dần phải đưa hết vào trong một cái rọ.


Rõ ràng "đoạn đời 15 năm"" núi đồi Trung Việt Nam Ngãi Bình Phú" là lối nói thậm xưng để thành một loại mật ngôn, nhằm chuyển tải một tâm sự. Ngay cả việc chăn dê cũng chỉ là một cái cớ. Thời gian, không gian, công việc ấy chỉ là các khái niệm tượng trưng, nhờ đó gợi lên những tình ý mông lung hơn về một thời điểm, một nơi chốn và một tình trạng. Nội dung bài thơ chỉ thuần túy nói về việc chăn dê và cái tình của tác giả đối với bầy dê, với hình ảnh, ý tứ và ngôn từ đẹp, nên thơ, độc đáo. Duy chỉ tựa đề bài thơ và nhất là câu đề từ hơi lạ, khiến người đọc suy nghĩ, và tìm cách đưa ra một giải thích. Nhưng đó là một mấu chốt không thể không giải của bài thơ Nỗi Lòng Tô Vũ.

Phạm Xuân Đài

(Thế Kỷ 21 số 115, November 1998)

* Dê Hoa Cà có lông lổ đổ tía hồng xem như hoa cà vậỵ. Đẹp vô cùng. Nhất là những buổi chiều, sắc lông óng ả dưới nắng vàng - xa xa hình bóng dê rực rỡ nổi bật trên triền núi xanh lợ Dê Hoa Cà còn gọi là Dê Sao (vì lông lổ đổ sáng như sao).

** Ý nói cái lần đầu, thuở hai mươi tuổi, trao cái vòng ngọc cho vị hôn thê mà không cảm động bằng lần đầu đeo vòng cho dê vậỵ.